Mẫu báo cáo thực hiện pháp lệnh 34
Báo cáo thực hiện quy chế dân chủ theo Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn được Hoatieu.vn sưu tầm được và giới thiệu tới các bạn qua bài viết sau đây. Mời các bạn tham khảo và tải về.
1. Báo cáo thực hiện quy chế dân chủ theo Pháp lệnh 34 là gì?
Báo cáo thực hiện quy chế dân chủ theo Pháp lệnh 34 là mẫu được lập ra để đánh giá, tổng kết quy chế dân chủ thực hiện trong suốt 1 năm và từ đó đưa ra phương án, nhiệm vụ, giải pháp trong năm mới.
2. Báo cáo thực hiện quy chế dân chủ theo Pháp lệnh 34
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH ………..
Số: ………. |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ……….., ngày ….tháng …..năm …. |
BÁO CÁO
Tổng kết Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
Thực hiện Công văn số ………. ngày ………. của Bộ Nội vụ về việc hướng dẫn tổng kết lệnh Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Ủy ban nhân dân tỉnh ……….. tổng hợp, báo cáo kết quả thực hiện Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 trên địa bàn tỉnh như sau:
I. CÔNG TÁC QUÁN TRIỆT
1. Khái quát chung
Năm 1997 tỉnh ……….. được tái lập theo Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX ngày 26/11/1996, sau khi điều chỉnh địa giới hành chính hiện nay tỉnh ……….. có tổng diện tích tự nhiên 1.237,52 km2, dân số gần 1.1 triệu người, gồm 09 huyện, thành, thị và 137 xã, phường, thị trấn; nằm tiếp giáp với thủ đô Hà Nội, có nhiều tuyến giao thông huyết mạch đi qua nối thủ đô Hà Nội với các tỉnh phía Bắc và Tây Bắc, có vị trí và điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển kinh tế – xã hội.
Trong những năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh đã tập trung chỉ đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn tỉnh; nền kinh tế của tỉnh duy trì tốc độ tăng trưởng cao, quy mô không ngừng được nâng lên, thu ngân sách năm 2014 đạt gần 21.000 tỷ đồng; ……….. là tỉnh đã có đóng góp nguồn thu cho ngân sách Trung ương, thuộc địa bàn chiến lược trong quy hoạch vùng thủ đô, vùng trọng điểm kinh tế Bắc Bộ. Thu hút đầu tư có nhiều chuyển biến tích cực; tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính. Năm 2014, ……….. đã hoàn thành xây dựng nông thôn mới theo kế hoạch tại 40 xã điểm. Lĩnh vực giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển, đến nay ……….. là một trong 10 tỉnh được công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học. Các lĩnh vực văn hóa – xã hội, khoa học công nghệ tiếp tục phát triển, từng bước kết hợp hài hòa với phát triển kinh tế; công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng; an sinh xã hội được chú trọng; quốc phòng được củng cố, tăng cường; an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; công tác đối ngoại được mở rộng; bộ mặt của cả thành thị và nông thôn có nhiều đổi mới, tiến bộ; đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, nâng cao.
Thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, điều hành của chính quyền, sự phối kết hợp của các cấp, các ngành, các cơ quan, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở và sụ đồng tình ủng hộ của các tầng lớp nhân dân, việc triển khai thực hiện Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2004 của Ủy ban Thường vụ quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (Pháp lệnh 34) trên địa bàn tỉnh những năm qua có những thuận lợi, khó khăn sau:
a) Thuận lợi
Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh tập trung sức mạnh, đoàn kết, thống nhất cao trong việc phát triển kinh tế – xã hội, tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước để khai thác các tiềm năng cho sản xuất phát triển. Cơ chế chính sách của tỉnh luôn được đổi mới, bổ sung kịp thời, phù hợp, đảm bảo kết hợp hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp, đặc biệt là lợi ích của người dân, phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, tạo thêm động lực mới cho sự phát triển trên địa bàn tỉnh; đội ngũ đảng viên luôn phát huy tính tiên phong gương mẫu, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở gắn với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, cuộc vận động xây dựng nông thôn mới, xây dựng gia đình văn hóa và nhiều cuộc vận động khác đã góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương. Các phong tào thi đua, các cuộc vận động là cơ sở để nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình trong đời sống sinh hoạt ở cộng đồng dân cư…
Trong chỉ đạo điều hành, cấp ủy đảng, chính quyền các cấp đã chủ động, tích cực trong việc đối thoại và lắng nghe ý kiến, kiến nghị của nhân dân và có trách nhiệm giải quyết những phản ánh, kiến nghị của nhân dân. Nhiều chủ trương, chính sách triển khai hợp lòng dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ.
b) Khó khăn
Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh cao nên nảy sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc cần tập trung tháo gỡ. Thời tiết, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp, giá các loại vật tư, nguyên nhiên liệu tăng cao đã ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống nhân dân. Nhu cầu xã hội như: Đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, chi phí khám chữa bệnh, học tập cho người nghèo, xử lý môi trường đang tăng cao cần phải giải quyết
Một số chủ trương, chính sách còn bất cập như: Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, lao động việc làm, môi trường…; khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, tai tệ nạn xã hội, những vấn đề phức tạp nảy sinh từ cơ sở là những khó khăn trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình thực hiện quy chế dân chủ trong giai đoạn hiện nay.
Nhận thức của một số cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa đầy đủ về dân chủ ở cơ sở. Một số cán bộ ở cơ sở trình độ, năng lực còn hạn chế. Việc triển khai tổ chức thực hiện Pháp lệnh 34 về dân chủ có việc, có nơi chưa được chú trọng; điều kiện làm việc, cơ sở vật chất ở một số xã, nhà văn hóa thôn còn khó khăn;
2. Công tác tuyên truyền, phổ biến
Công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung Pháp lệnh 34 được cấp ủy, chính quyền các cấp triển khai tích cực, hình thức tuyên truyền được lồng ghép vào các buổi hoà giải, họp dân ở khu dân cư và được tuyên truyền, phổ biến trên Đài PTTH tỉnh, Báo ……….., hệ thống đài truyền thanh huyện, thành phố, thị xã và hệ thống truyền thanh các xã, phường, thị trấn… Kết quả có 137/137 xã, phường, thị trấn; 1385/1385 thôn, tổ dân phố; các tổ liên gia tự quản triển khai Pháp lệnh 34 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, có 87% số hộ, 92% cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên được tuyên truyền phổ biến các nội dung của Pháp lệnh.
Hàng năm, trong chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ cho các đối tượng là: Bí thư chi bộ, Tổ trưởng Tổ dân vận, Trưởng thôn, Trưởng Ban công tác mặt trận, Chi hội trưởng các đoàn thể đều có nội dung phổ biến, quán triệt, tuyên truyền nội dung Pháp lệnh 34 và các Chỉ thị, Kết luận của Đảng về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở. Hàng năm Ban chỉ đạo cấp huyện cấp phát tài liệu về quy chế dân chủ và chế độ chính sách của chính quyền cơ sở cho lãnh đạo Đảng, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở tự nghiên cứu tổng số 27.000 cuốn.
Qua đó, những nội dung của Pháp lệnh dân chủ được đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững, giúp nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị ở cơ sở. Trong quá trình triển khai, mọi vấn đề đều được bàn bạc công khai, thảo luận dân chủ trong nhân dân với phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân giám sát. Chính vì vậy, trong thời gian qua các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh đã xây dựng được nhiều tuyến đường bê tông, hệ thống cống rãnh đẳm bảo vệ sinh ngõ, xóm công trình phúc lợi công cộng như: nhà văn hóa, xây dựng nông thôn mới… Thông qua việc thực hiện QCDC ở cơ sở đã góp phần làm chuyển biến tích cực các mặt của kinh tế- xã hội, quốc phòng an ninh xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
1. Hướng dẫn thi hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI
1.1. Các hình thức văn bản hướng dẫn triển khai thi hành Pháp lệnh 34
Ban chỉ đạo thực hiện QCDC tỉnh thường xuyên kiện toàn và xây dựng kế hoạch cụ thể, phân công nhiệm vụ cho từng thành viên theo dõi thực hiện quy chế dân chủ trong tỉnh. Công tác chỉ đạo thực hiện QCDC ở cơ sở được gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và phong trào “Chung sức xây dựng nông thôn mới”. Hàng năm đã ban hành các kế hoạch như: Kế hoạch số về tuyên truyền về thực hiện quy chế dân chủ, Kế hoạch về thực hiện quy chế dân chủ, Kế hoạch về tập huấn QCDC ở cơ sở, Kế hoạch về kiểm tra thực hiện QCDC;
UBND tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị xây dựng chương trình, kế hoạch tập trung phát triển kinh tế – xã hội gắn với thực hiện Pháp lệnh 34, xây dựng đời sống văn hóa, định hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nắm bắt tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân dân, giải quyết kịp thời những vướng mắc của nhân dân, đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”. Tổ chức lấy ý kiến của cán bộ, các tầng lớp nhân dân trong việc xây dựng và ban hành các quy chế, quy định về các lĩnh vực như: quản lý trật tự đô thị, tiếp dân, quy hoạch, xây dựng hạ tầng… Kiện toàn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, làm tốt công tác điều hành và phối hợp chặt chẽ với UBMTTQ, các tầng lớp nhân dân trong việc thực hiện QCDC ở cơ sở.
1.2. Trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp trong việc hướng dẫn thi hành Pháp lệnh số 34
Các cấp uỷ Đảng đã có nhận thức đúng đắn, hiệu quả của việc thực hiện QCDC ở cơ sở, từ đó đã chỉ đạo sát sao việc triển khai QCDC tới toàn thể cán bộ, Đảng viên phát huy dân chủ của nhân dân, gắn thực hiện QCDC với đổi mới, nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở. Cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp đã không ngừng tăng cường công tác tuyên truyền, quán triệt, học tập các văn bản của Trung ương, của tỉnh về chỉ đạo và thực hiện QCDC ở cơ sở. Tỉnh uỷ đã triệu tập Hội nghị quán triệt và thực hiện Nghị quyết và các bản kết luận Hội nghị TW9 (khoá X); tập huấn nghiệp vụ về thực hiện QCDC. Cấp huyện tổ chức các hội nghị BCH Đảng bộ, cán bộ, Trưởng, phó các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương; cấp xã tổ chức hội nghị Đảng bộ, bí thư chi bộ, trưởng thôn dân cư và tổ trưởng TDP, hội nghị nhân dân tại thôn dân cư để triển khai các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước mà trọng tâm là Pháp lệnh số 34 của Chính phủ. Nhìn chung trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp trong việc hướng dẫn học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Pháp lệnh 34 và các văn bản của Đảng, Nhà nước về thực hiện QCDC ở cơ sở đã được các cấp, các ngành quan tâm tổ chức thực hiện với nhiều hình thức đa dạng, phong phú và đạt hiệu quả cao trong quá trình thực hiện.
2. Kết quả cụ thể
2.1. Đánh giá thi hành Pháp lệnh số 34
2.1.1. Thực hiện nội dung công khai để dân biết
Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn quy định 11 nội dung công khai để dân biết, trong đó: 4 nội dung công khai bằng hình thức niêm yết; 7 nội dung công khai trên hệ thống truyền thanh của địa phương và thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến nhân dân.
Theo kết quả theo dõi, kiểm tra các nội dung công khai bằng hình thức niêm yết được UBND các xã, phường, thị trấn thực hiện tốt như: Công khai phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết; nhiệm vụ quyền hạn của cán bộ, công chức; đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí; các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết công việc liên quan đến nhân dân.
Các nội dung công khai trên hệ thống thông tin truyền thông của địa phương và thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến nhân dân đã làm tốt như: Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hàng năm; việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, các khoản huy động nhân dân đóng góp; chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo; kết quả bình xét hộ nghèo; kết quả thanh tra, kiểm tra; việc tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ…
Việc thực hiện các nội dung công khai theo Pháp lệnh 34 luôn được cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến các xã, phường, thị trấn quan tâm chỉ đạo, thực hiện nghiêm túc. Các xã, phường, thị trấn có dự án thu hồi đất đều thực hiện công khai quy hoạch, phương án bồi thường giải phóng mặt bằng với nhiều hình thức như: niêm yết ở trụ sở UBND, thông báo trên hệ thống truyền thanh, qua họp dân, qua họp Tổ liên gia tự quản. Hiện nay, các tổ liên gia duy trì họp thường xuyên hàng tháng vì vậy mọi chủ trương, chính sách đều được thông báo đến nhân dân, được bàn bạc với nhân dân, nhân dân tham gia đóng góp ý kiến thông qua tổ liên gia tổng hợp báo cáo lên UBND cấp xã.
Một điểm mới trong việc thực hiện công khai các hoạt động của HĐND đó là: nhiều kỳ họp HĐND của một số xã, phường, thị trấn đã cho truyền thanh trực tiếp trên đài truyền thanh xã thu hút sự quan tâm theo dõi của nhân dân, tạo ra không khí dân chủ, cởi mở và nâng cao trách nhiệm của người đại biểu đối với nhân dân.
Ủy ban MTTQ các cấp đã tổ chức tốt các hội nghị tiếp xúc cử tri, thông qua đó để các Đại biểu QH, Đại biểu HĐND các cấp báo cáo với cử tri kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, các chính sách mới về hỗ trợ sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, xóa đói giảm nghèo và chính sách khác… Mỗi kỳ tiếp xúc cử tri đã có trên 4.000 lượt ý kiến, kiến nghị của cử tri với các cấp, các ngành những vấn đề mà cử tri quan tâm.
Tổ liên gia tự quản ở các thôn, tổ dân phố trên địa bàn tỉnh đã duy trì hoạt động thường xuyên. Hệ thống đài truyền thanh của cấp huyện, cấp xã được đầu tư nâng cấp hoạt động có hiệu quả. Thông qua đó các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, kết quả thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh, kết quả hoạt động của HĐND, UBND các cấp được thông tin đến các tầng lớp nhân dân trong tỉnh biết và thực hiện. Phương châm “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã được quán triệt thực hiện tốt, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Ý thức làm chủ của người dân được nâng lên, góp phần tích cực thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
1.1.2. Thực hiện nội dung nhân dân bàn, quyết định trực tiếp
Nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân gắn với cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; phát huy chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của chính quyền, thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp để nhân dân bàn bạc và quyết định những công việc liên quan thiết thực với quyền lợi của nhân dân. Với chủ trương xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn khang trang sạch đẹp, xây dựng nông thôn mới.
Tỉnh đã chỉ đạo xây dựng và thực hiện Đề án phát triển GTNT giai đoạn 2007-2010, Đề án phát triển GTNT giai đoạn 2011-2020; các địa phương đã triển khai bằng nhiều hình thức: Họp dân, họp tổ liên gia tự quản, phát phiếu đến hộ gia đình. Sau khi được nhân dân đồng tình ủng hộ xây dựng với sự quản lý chặt chẽ và phát huy cao quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân tích cực đóng góp cùng với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Kết quả, đến hết tháng 12/2014, toàn tỉnh cứng hóa được 1.119,8 km (86,8%) đường trục xã; 1364,7km (81,1%) đường trục thôn, xóm và 370,3 km (34,9%) đường trục chính giao thông nội đồng; kiên cố hóa xong kênh loại I, II và 856,138/1.077 km kênh loại III. Hệ thống thủy lợi trên địa bàn tỉnh cơ bản đáp ứng được yêu cầu sản xuất và dân sinh. Các công trình đầu mối, trạm bơm, hồ đập vùng khó khăn về nguồn nước đã từng bước được đầu tư theo Nghị quyết số 29/2011/NQ-HĐND ngày 19/12/2011 của HĐND tỉnh về chương trình kiên cố hóa kênh mương và bê tông hóa mặt bờ kênh loại I, II giai đoạn 2012-2015 của HĐND tỉnh.
Các xã, phường, thị trấn đã bàn với nhân dân đóng góp kinh phí lắp đặt hệ thống chiếu sáng đường giao thông các thôn, tổ dân phố vào ban đêm để nhân dân tiện đi lại và bảo vệ an ninh khu vực được nhân dân đồng tình hưởng ứng, với mức đóng góp ban đầu mỗi hộ hàng trăm ngàn. Đến nay cơ bản các thôn, tổ dân phố đều có hệ thống điện chiếu sáng vào ban đêm.
Về xây dựng cơ sở vật chất văn hóa thôn. Cùng với kinh phí của nhà nước, các địa phương đã bàn với nhân dân về việc xây nhà văn hóa thôn. Vận động nhân dân đóng góp ngày công, tiền của và hiến đất để xây dựng nhà văn hóa thôn. Trong 8 năm qua, nhân dân đóng góp bằng tiền là 126.248 triệu đồng để xây dựng nhà văn hóa thôn; đến nay112/112 xã có Nhà văn hóa kiêm hội trường xã, có 974/1072 thôn có nhà văn hóa. Nhân dân trong tỉnh đã hiến 568.846m2 đất và đóng góp 110.229 ngày công lao động để xây dựng nhà văn hóa, đường giao thông nông thôn, giao thông nội đồng. Điển hình các xã về phong trào nhân dân hiến đất xây dựng nông thôn mới như: xã Thượng Trưng, huyện Vĩnh Tường: 13.090m2, xã Tân Cương, huyện Vĩnh Tường: 6.329m2, xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên: 2.010m2 và nhiều địa phương khác trên địa bàn tỉnh.
Mặt trận Tổ quốc các cấp đã phối hợp với UBND cùng cấp phát huy dân chủ trong thực hiện Đề án hỗ trợ người nghèo về nhà ở theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg của Thủ Tường chính phủ, họp công khai về đối tượng được xét hỗ trợ làm nhà, kinh phí được hỗ trợ.
Chính quyền các xã, phường, thị trấn chỉ đạo các thôn, tổ dân phố thực hiện công khai bàn bạc thống nhất với nhân dân trong việc bình xét hộ nghèo hàng năm, thực hiện các chính sách hỗ trợ khác về vốn, giống cho nhân dân. Trong thực hiện các chương trình dự án có hỗ trợ kinh phí, đều được công khai trên hệ thống phát thanh của địa phương, thông qua họp dân về đối tượng thụ hưởng, mức hỗ trợ. Các xã, thị trấn đã triển khai thực hiện nhiều chương trình dự án, nhưng chưa có trường hợp khiếu kiện về các nội dung trên.
1.1.3. Thực hiện nội dung nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định
Về xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố trong những năm qua tiếp tục được cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm. Nhằm phát huy những chuẩn mực đạo đức truyền thống, đồng thời khuyến khích phát triển sản xuất, giữ gìn an ninh, trật tự, vệ sinh, môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội. Các thôn, tổ dân phố đã tổ chức lấy ý kiến nhân dân bằng nhiều cách như: họp thôn, tổ dân phố, họp tổ liên gia, phát phiếu đến hộ gia đình, phát thanh trên loa…nhằm cho nhân dân được bàn bạc dân chủ để xây dựng sau đó nhân dân tự giác thực hiện. 100% thôn, tổ dân phố đã xây dựng, điều chỉnh, bổ sung hương ước, quy ước được UBND huyện, thành, phố, thị xã phê duyệt đảm bảo phù hợp với pháp luật hiện hành.
Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được gắn với xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước, thôn, tổ dân phố văn hóa. Nhiều lễ hội trò chơi dân gian được tổ chức, phục dựng, phát triển, lưu truyền và tổ chức biểu diễn được nhân dân tích cực hưởng ứng. Phong trào xây dựng làng văn hóa, cơ quan văn hóa, gia đình văn hóa được phát triển sâu rộng. Kết quả, đến hết năm 2014, có 232.712/271.994 gia đình văn hóa, đạt 85,5%; có 1.071/1.385 làng văn hóa đạt 77,3% .
Việc bầu cử, miễn nhiệm trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố được thực hiện dân chủ chặt chẽ, đúng quy trình, do nhân dân trực tiếp bầu ra bằng hình thức bỏ phiếu kín với tỷ lệ người dân tham gia đạt trên 90%.
Ban Thanh tra nhân dân và Ban Giám sát đầu tư cộng đồng được nhân dân bầu bằng hình thức biểu quyết, hoặc bỏ phiếu kín do Ủy ban MTTQ hiệp thương giới thiệu bầu và ra quyết định công nhận. Hiện nay 137/137 xã, phường, thị trấn thành lập Ban Thanh tra nhân dân.
Nhìn chung Ban Thanh tra nhân dân các xã, phường, thị trấn đã được thành lập theo đúng quy trình hướng dẫn và Luật thanh tra về cơ cấu tổ chức, đã làm tốt vai trò giám sát hoạt động của UBND như: việc thực hiện chính sách pháp luật, việc giải quyết khiếu nại tố cáo, việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở….góp phần phát huy dân chủ, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
1.1.4. Thực hiện những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định:
Việc lấy ý kiến nhân dân tham gia trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định được UBND các xã, thị trấn thực hiện theo trình tự các bước, trước khi lấy ý kiến nhân dân, chính quyền chuẩn bị dự thảo các nội dung như: Kế hoạch phát triển KT- XH hàng năm, 5 năm; dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết; chủ trương phương án đền bù hỗ trợ giải phóng mặt bằng, dự thảo quy hoạch, đề án chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới….Đã xây dựng kế hoạch, xác định thời gian, nội dung lấy ý kiến; tổ chức thông báo công khai để nhân dân biết các nội dung; phối hợp với MTTQ chỉ đạo các thôn, tổ dân phố, Ban công tác mặt trận tổ chức họp dân, lấy ý kiến nhân dân trực tiếp, hoặc tổ chức phát phiếu lấy ý kiến từng hộ gia đình, tổng hợp ý kiến tiếp thu và thông báo kết quả tiếp thu ý kiến đến nhân dân.
Kết quả đã có hàng ngàn ý kiến của nhân dân tham gia hiến kế, đề xuất, tháo gỡ nhiều khó khăn vướng mắc, đồng thuận thống nhất các chủ trương phát triển kinh tế, đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, xóa đói giảm nghèo. Thông qua đó nhằm phát huy vai trò của nhân dân, tôn trọng quyền tham gia ý kiến, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu các cấp chính quyền trong lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
1.1.5. Thực hiện những nội dung nhân dân giám sát:
Trong những năm qua Ban thanh tra nhân dân các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh đã giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại tố cáo, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Ban giám sát đầu tư của cộng đồng đã giám sát, kiểm tra nhiều công trình xây dựng. Qua đó đã phát hiện những dấu hiệu, hành vi vi phạm, giám sát chất lượng công trình để kiến nghị người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
Nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình bằng hình thức thông qua người đại diện là Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng, hoặc trực tiếp giám sát thông qua Luật khiếu nại tố cáo và kiến nghị đề xuất đến cơ quan có thẩm quyền.
Các cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể tạo mọi điều kiện cho việc giám sát của nhân dân trong việc thực hiện các Nghị quyết của HĐND cấp trên, ý kiến kiến nghị của cử tri và tình hình hoạt động của các đại biểu HĐND, việc thu, chi ngân sách, quyết toán các công trình xây dựng do nhân dân đóng góp, về quản lý và sử dụng đất đai, về thực hiện các chính sách xã hội…; giám sát về việc thực hiện Luật nghĩa vụ quân sự ở các xã, phường, thị trấn; công tác cải cách hành chính, việc cấp GCNQSD đất…
UBND các cấp đã phối hợp với Ủy ban MTTQ cùng cấp tạo điều kiện thuận lợi cho Ban thanh tra nhân dân hoạt động. Từ việc cung cấp thông tin, cấp kinh phí và tạo cơ sở vật chất làm việc; mời tham dự các lớp tập huấn chuyên môn nghiệp vụ, dự các kỳ họp HĐND, UBND,….Nhiều Ban thanh tra nhân dân đã xây dựng được chương trình công tác hàng năm, với những nhiệm vụ cụ thể cho từng tháng, quý. Hầu hết các đồng chí Trưởng Ban thanh tra nhân dân đều có tinh thần trách nhiệm cao, thường xuyên nghiên cứu các luật, thông tư, các văn bản khác để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nắm vững pháp luật để giải quyết vụ việc đúng với quy định của nhà nước.
Nhân dân giám sát hoạt động của các đại biểu dân cử, hoạt động của cơ quan nhà nước ở cơ sở thông qua các cuộc tiếp xúc cử tri của các đại biểu HĐND, các cuộc họp báo cáo công tác trước cử tri của Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn công khai hoạt động tài chính của chính quyền cơ sở. Phát huy chế độ dân chủ đại diện, thông qua đại biểu HĐND, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân để theo dõi qua các kỳ họp hàng tháng, quý, 6 tháng, hàng năm của HĐND, UBND. Các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng có vốn do nhân dân đóng góp hoặc nhà nước và nhân dân cùng làm có Ban giám sát đầu tư cộng đồng tham gia giám sát.
Ban thanh tra nhân dân các xã, phường, thị trấn đã phát hiện một số trường hợp vi phạm, có dấu hiệu vi phạm và kiến nghị với chính quyền kịp thời giải quyết ổn thỏa, mang lại những kết quả đáng kể ở một số mặt công tác như: tiếp nhận và giải quyết nhiều đơn thư khiếu nại, kiến nghị của nhân dân cũng như tổ chức hòa giải thành công nhiều vụ việc mâu thuẩn nhỏ xảy ra tại cơ sở.
2.2. Kết quả thực hiện Nghị quyết Liên tịch số 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN ngày 17/4/2008 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn thi hành các Điều 11, Điều 16, Điều 22 và Điều 26 của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Các nội dung của Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN ngày 17/4/2008 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam hướng dẫn thi hành các Điều: 11, 16, 22, 26 của Pháp lệnh số 34 được các cấp ủy Đảng, chính quyền thực hiện nghiêm túc và đạt được những kết quả tích cực, cụ thể như:
100% các cuộc họp thôn, tổ dân phố được thực hiện đúng quy định, tỷ lệ cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình đến dự các cuộc họp thôn, tổ dân phố luôn đạt khoảng 80% tổng số cử tri.
Việc tiến hành bầu Trưởng thôn, Tổ trưởng Tổ dân phố và công tác lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do HĐND cấp xã bầu được thực hiện đúng quy định.
2.3. Công tác phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội ở cấp xã, phường, thị trấn trong việc thi hành Pháp lệnh số 34.
MTTQ luôn giữ vững vai trò đại diện của nhân dân thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể chính trị – xã hội, bám sát các văn bản về thực hiện QCDC để tuyên truyền và vận động nhân dân thực hiện. Do đó, tình hình nhân dân nhiều năm qua ổn định, phát huy được quyền làm chủ của mình, đóng góp ý kiến xây dựng đảng, xây dựng chính quyền một cách thiết thực.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị ở cấp xã, phường, thị trấn đã tích cực trong công tác tuyên truyền việc thi hành Pháp lệnh số 34. Trong các nội dung trình kỳ họp HĐND luôn họp bàn và thống nhất về nội dung với Mặt trận Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc đã tổ chức tốt các hội nghị tiếp xúc cử tri; công tác hiệp thương trong bầu Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố. Các tổ chức chính trị xã hội và Mặt trận Tổ quốc đã phối hợp với UBND cùng cấp họp công khai vận động nhân dân đóng góp kinh phí xây dựng nhà văn hóa thôn, hiến đất làm đường giao thông, ủng hộ các Quỹ; tổ chức họp dân, lấy ý kiến nhân dân hoặc phát phiếu lấy ý kiến dân đảm bảo công khai, dân chủ; tổ chức các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi cho Ban thanh tra nhân dân hoạt động. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị ở cấp xã, phường, thị trấn phối hợp với UBND cùng cấp Có thể khẳng định, trong quá trình triển khai quán triệt các văn bản của Trung ương về tiếp tục xây dựng và thực hiện QCDC, chÝnh quyÒn, MTTQ, c¸c ®oµn thÓ nh©n d©n trên địa bàn tỉnh đã tổ chức quán triệt và chỉ đạo chặt chẽ đến tận cơ sở. Thông qua triển khai quán triệt và thực hiện các cấp uỷ Đảng đã có sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức, vai trò lãnh đạo được nâng lên một bước, đã phát huy hiệu quả và có ý nghĩa quan trọng, đáp ứng những yêu cầu, nguyện vọng của đảng viên, cán bộ, công chức, hội viên, người lao động. Các cấp ủy cơ sở đã chú trọng công tác lãnh, chỉ đạo thực hiện QCDC; xem đây là một tiêu chuẩn để đánh giá, xét thi đua, hoặc công nhận danh hiệu đơn vị trong sạch vững mạnh, gắn việc thực hiện QCDC với nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở.
3.1. Kết quả đạt được
Các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở luôn nhận thức được việc thực hiện QCDC theo Chỉ thị 30 Bộ Chính trị là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Do đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, tổ chức thực hiện Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị, Pháp lệnh 34 của UBTVQH và các Nghị định của Chính phủ được các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể từ quan tâm lãnh, chỉ đạo tạo bước chuyển biến về nhận thức của cán bộ, đảng viên và tầng lớp nhân dân; tạo bầu không khí dân chủ, cởi mở hơn trong đời sống xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền các cấp, là động lực mới thúc đẩy thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội, nhất là trên các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, đời sống văn hoá mới, xoá bỏ hủ tục lạc hậu; từng bước nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức từ đó đã có tác dụng ngăn ngừa, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, số chi, đảng bộ trong sạch tăng; góp phần quan trọng trong xây dựng hệ thống chính trị, bộ máy chính quyền được củng cố, chất lượng và hiệu quả hoạt động được nâng lên, tạo được lòng tin với nhân dân, thể hiện: Hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã chuyển biến tích cực, các nghị quyết của HĐND đã sát với thực tế, đời sống nhân dân được quan tâm, các ý kiến đóng góp của nhân dân được tôn trọng. UBND thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Các thủ tục hành chính được công khai hoá tại những nơi nhân dân dễ tiếp cận; MTTQ và các đoàn thể nhân dân được tăng cường cả về tổ chức và chất lượng hoạt động, đã thể hiện tốt vai trò, trách nhiệm trong cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện QCDC ở cơ sở;
Do thực hiện tốt QCDC ở cơ sở, bầu không khí dân chủ trong Đảng, xã hội ngày càng phát huy, tạo khí thế phấn khởi, cổ vũ, động viên, khích lệ, xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng đời sống văn hoá; nhiều khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội đã được nhân dân bàn bạc, tham gia cùng cấp uỷ Đảng, chính quyền tháo gỡ, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; kinh tế – xã hội phát triển, cơ cấu kinh tế của huyện chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ tăng, chăn nuôi phát triển, giảm tỷ trọng nông nghiệp, kinh tế phát triển toàn diện, chi ngân sách đảm bảo nguyên tắc, bám sát dự toán, chương trình, mục tiêu, việc quản lý nguồn chi ngân sách đã có nhiều tiến bộ. Lòng tin của nhân dân vào đường lối lãnh đạo của Đảng được củng cố và tăng cường, tình hình an ninh chính trị ổn định, bộ mặt nông thôn từng bước đổi mới, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước được nâng lên, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc được giữ gìn và phát huy, khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường, tình làng nghĩa xóm được duy trì, tích cực phòng chống các hiện tượng tiêu cực trong cơ quan nhà nước và doanh nghiệp; giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo, đề nghị của công dân; chính trị tiếp tục ổn định, quốc phòng được giữ vững, trật tự an toàn xã hội bảo đảm; công tác cải cách hành chính được đẩy mạnh và mở rộng ở tất cả các nội dung, nhất là việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” ngày càng hoàn thiện và đi vào nề nếp, từ đó đã góp phần vào thắng lợi chung của sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn tỉnh.
3.2. Tồn tại, hạn chế
– Một số cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể, Ban chỉ đạo thực hiện QCDC ở các xã, phường, thị trấn chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng, tính lâu dài và nhiệm vụ trước mắt của thực hiện QCDC, do vậy việc tổ chức, thực hiện chưa triệt để, hiệu quả chưa cao, còn có biểu hiện hình thức trong việc thực hiện QCDC ở địa phương, cơ quan, đơn vị; việc công khai tài chính (thu, chi) của các cơ quan, đơn vị, địa phương chưa được thường xuyên; việc huy động đóng góp của nhân dân để xây dựng các công trình phúc lợi của thôn, tổ dân phố còn ít, hiệu quả chưa cao;
– Một số nơi chưa thực hiện đầy đủ các quy định, quy trình về công khai dân chủ; nhất là việc thực hiện chế độ chính sách trong thực hiện thu hồi đất, giải phóng mặt bằng.
– Một số cán bộ, công chức cấp cơ sở, nhất là trưởng thôn năng lực còn hạn chế, nên việc nhận thức phổ biến, truyền đạt chưa đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của QCDC; việc tuyên truyền phổ biến các văn bản quy định về thực hiện QCDC và các văn bản pháp luật khác chưa thực sự đi vào chiều sâu, tổ chức cho nhân dân thực hiện QCDC chưa đạt kết quả cao;
– Hoạt động của Ban thanh tra nhân dân ở nhiều cơ sở hiệu quả chưa cao, chưa có kế hoạch cụ thể hàng năm; công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động Ban Thanh tra nhân dân chưa thống nhất, thậm chí có nơi Ban Thanh tra nhân dân hoạt động có tính chất cá nhân gây phức tạp tình hình. Ban giám sát đầu tư của cộng đồng hoạt động còn hạn chế, chưa phối hợp tốt với chủ thầu và chính quyền cấp xã.
– Việc củng cố, kiện toàn BCĐ thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở chưa kịp thời khi thay đổi nhân sự. Hoạt động của một số Ban chỉ đạo quy chế dân chủ ở cơ sở chưa thường xuyên, chưa có nội dung cụ thể hoá sát với tình hình thực tế. Công tác kiểm tra, đôn đốc sơ, tổng kết tuy có được quan tâm chỉ đạo nhưng chưa kịp thời.
3.3. Nguyên nhân
– Nhận thức của một số cấp uỷ, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể nhân dân về nội dung ý nghĩa tầm quan trọng của Pháp lệnh 34 và các Nghị định của Chính phủ về thực hiện QCDC ở cơ sở chưa đầy đủ, do đó trong quá trình tổ chức thực hiện đạt hiệu quả chưa cao.
– Sự phối hợp giữa các cấp uỷ Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể trong triển khai và tổ chức thực hiện có một số nội dung trong quy chế dân chủ ở cơ sở còn hạn chế. Hầu hết chưa thực hiện dân chủ trực tiếp, đối thoại ở cơ sở.
– Ban chỉ đạo quy chế dân chủ ở một xã, phường, thị trấn còn chậm đổi mới. Một bộ phận nhân dân một phần trình độ hiểu biết pháp luật nói chung và pháp luật về dân chủ nói riêng còn hạn chế, một phần có tâm lý ngại yêu cầu, ngại tham gia ý kiến, kiến nghị. Cá biệt có công dân thường xuyên đi khiếu kiện kéo dài nên ảnh hưởng đến kết quả thực hiện dân chủ ở cơ sở.
– Công tác kiểm tra, giám sát chưa được làm thường xuyên, trình độ cán bộ còn hạn chế, tác phong chưa thật sự gần gũi, hết lòng phục vụ nhân dân.
3.4. Giải pháp tháo gỡ khó khăn, hạn chế
Một là: Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, thực hiện Pháp lệnh 34 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cần phải nắm vững các quan điểm của Đảng, nhận thức đúng đắn về phát huy dân chủ trong nhân dân tạo sự đồng thuận xã hội và sức mạnh toàn dân trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Hai là: Phải luôn quan tâm củng cố hệ thống chính trị cơ sở, chú trọng bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ công chức cơ sở có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có trách nhiệm với nhân dân, từng bước mở rộng dân chủ trực tiếp, nâng cao chất lượng dân chủ đại diện phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân.
Ba là: Gắn việc thực hiện Pháp lệnh 34 với phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội ở cơ sở, gắn với công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, với các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước trong nhân dân.
Bốn là: Phát huy dân chủ gắn với kỷ cương, kỷ luật, xử lý nghiêm minh đúng pháp luật những vụ tiêu cực, sai phạm của cán bộ và những hành vi lợi dung dân chủ để gây rối làm ảnh hưởng đến trật tự ở cơ sở.
Năm là: Quan tâm củng cố kiện toàn Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Tăng cường công tác kiểm tra đôn đốc việc thực hiện Pháp lệnh 34, kịp thời biểu dương, khen thưởng, nhắc nhở, phê bình những tổ chức cá nhân thực hiện chưa tốt Pháp lệnh. Đảm bảo kinh phí cho hoạt động của Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ các cấp.
IV. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
1. Kiến nghị các giải pháp để tiếp tục triển khai thi hành Pháp lệnh số 34.
– Tiếp tục quán triệt sâu sắc những tư tưởng, quan điểm của Đảng đã nêu trong Chỉ thị 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị (khoá VIII), Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhằm làm chuyển biến về nhận thức và ý thức, tác phong của cán bộ, đảng viên, công chức theo hướng “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, khắc phục tình trạng quan liêu, tham nhũng, tiêu cực; tạo ra bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội, phát huy tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân, tạo động lực thúc đẩy thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng trên địa bàn huyện.
– Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt sâu sắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân những chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về xây dựng và thực hiện dân chủ ở cơ sở như: Chỉ thị số 30 của Bộ Chính trị (khóa VIII), Chỉ thị số 10 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX), Pháp lệnh lệnh 34 ngày 20/4/2007 của Ủy Ban thường vụ QH khóa XI về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; nhằm nâng cao hơn nữa ý thức, trách nhiệm về tầm quan trọng của việc thực hiện và phát huy dân chủ trong giai đoạn hiện nay.
– Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo củng cố, kiện toàn và duy trì hoạt động của Ban chỉ đạo thực hiện QCDC ở cơ sở để hoạt động ngày càng thiết thực và hiệu quả hơn; xứng đáng là cơ quan tham mưu đắc lực nhất cho cấp ủy và chính quyền về thực hiện dân chủ. Định kỳ, tổ chức sơ kết, tổng kết để rút kinh nghiệm, nhằm thực hiện có hiệu quả hơn chủ trương thực hiện dân chủ ở cơ sở. Tập trung lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ trên các lĩnh vực: cải cách hành chính, giải phóng mặt bằng, quản lý đất đai, giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân, phát huy hiệu quả hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, đặc biệt là Ban giám sát đầu tư cộng đồng.
– Gắn việc thực hiện nội dung Pháp lệnh 34 vào các phong trào thi đua như: Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, người tốt việc tốt, phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới… đặc biệt là việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, xây dựng Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể trong sạch, vững mạnh.
– Quan tâm xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức, tăng cường tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng về thực hiện dân chủ ở cơ sở cho đội ngũ cán bộ cấp xã. Cán bộ, đảng viên phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị và chuyên môn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đối với cán bộ thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên tiếp xúc với nhân dân phải nâng cao ý thức phục vụ nhân dân, công tâm, tận tụy với dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
– Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp của Mặt Trận Tổ quốc, sự quản lý của chính quyền trong triển khai Pháp lệnh 34 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Trong quá trình tổ chức thực hiện Pháp lệnh cần phải triển khai một cách đồng bộ với các văn bản pháp luật có liên quan để nhân dân tiếp cận đầy đủ các thông tin, các vấn đề có liên quan đến dân chủ, qua đó xây dựng ý thức làm chủ, tinh thần đấu tranh của nhân dân, phê phán các hiện tượng vi phạm dân chủ.
2. Đề xuất cụ thể nội dung cần sửa đổi, bổ sung và những nội dung cần hướng dẫn để thực hiện tốt hơn Pháp lệnh số 34
Đối với quy trình bầu trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố theo Nghị quyết 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN ngày 17/4/2008 của Chính Phủ và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt nam như hiện nay do chưa có hướng dẫn cho trường hợp tổ chức thành cuộc bầu cử riêng của Ủy ban nhân dân tỉnh nên các xã, phường, thị trấn tổ chức bầu Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố kết hợp tại hội nghị thôn, tổ dân phố. Việc thực hiện như vậy dẫn tới nhiều thôn, tổ dân phố phải tổ chức bầu lại lần hai mà vẫn không có kết quả phải bổ nhiệm lâm thời nên phần nào cũng ảnh hưởng đến an ninh chính trị và trở thành điểm nóng. Lý do là theo quy định Nghị quyết 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN người trúng cử trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố phải đạt trên 50% số phiếu bầu hợp lệ so với tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình trong toàn thôn, tổ dân phố tại hội nghị thôn, tổ dân phố.
Đề nghị sửa đổi Nghị quyết 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN như sau: Trường hợp người trúng cử trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố không đạt trên 50% số phiếu bầu hợp lệ so với tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình trong toàn thôn, tổ dân phố thì tổ chức họp lại. Trường hợp không tổ chức lại được cuộc họp hoặc tổ chức lại mà kết quả tổng hợp vẫn chưa được trên 50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình trong toàn thôn, tổ dân phố tán thành thì tiến hành phát phiếu lấy ý kiến những cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình không tham dự họp để tổng hợp chung vào kết quả bầu trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố ở thôn, tổ dân phố.
Trên đây là báo cáo Tổng kết thực hiện Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh ……….., UBND tỉnh ……….. trân trọng báo cáo Bộ Nội vụ./.
Nơi nhận: – Bộ Nội vụ; – TTTU, TTHĐND tỉnh; – CPCT, CPVP; – Các Sở, Ban ngành thuộc UBND tỉnh – UBND các huyện, thành, thị; – Lưu VT, TH1. |
TM. UỶ BAN NHÂN DÂN KT. CHỦ TỊCH PHÓ CHỦ TỊCH
(Đã ký) |
Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của Thiquocgia.vn.