Bài thu hoạch, bài dự thiTài liệu

Bài thu hoạch cảm tình Đảng năm 2021

Mẫu bài thu hoạch cảm tình Đảng dành cho công chức, viên chức
31

Mẫu bài thu hoạch cảm tình Đảng dành cho công chức, viên chức

Mẫu bài thu hoạch cảm tình Đảng kèm liên hệ bản thân được Hoatieu.vn giới thiệu để bạn đọc cùng tham khảo. Bài thu hoạch cảm tình Đảng là bài thu hoạch của cá nhân Đảng viên sau khi tham gia lớp học cảm tình Đảng. Thông qua bài thu hoạch có thể thấy được những hiểu biết của Đảng viên về Đảng cộng sản Việt Nam. Mời bạn đọc cùng tham khảo chi tiết bài thu hoạch cảm tình Đảng tại đây.

Với những ai muốn trở thành Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam, thì phải tham gia lớp học cảm tình Đảng để nắm các kiến thức về Đảng, điều lệ Đảng. Sau khi tham gia lớp học cảm tình Đảng sẽ phải hoàn thành bài thu hoạch lớp cảm tình Đảng năm 2021, và được cấp giấy chứng nhận cảm tình Đảng.

Dưới đây là một số mẫu bài thu hoạch cảm tình đảng mới nhất dành cho cán bộ, công nhân viên, giáo viên nhà trường. Mời các bạn cùng tham khảo và tải về sử dụng để nắm rõ hơn nội dung của bài thu hoạch cảm tình đảng năm 2021 nhé.

1. Bài thu hoạch cảm tình Đảng năm 2021

1. Đề xuất mới đối với Đảng để có bản lĩnh chính trị vững vàng và nhận thức đúng đắn về Đảng cộng sản Việt Nam.

1. Đồng chí có dự kiến mới gì đối với bản thân:

Bản thân tôi thấy rất tự hào khi được sinh ra trong một dân tộc có ý chí quật cường, một đất nước giàu truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, không chịu khuất phúc trước cường địch. Tôi tự hào về thành tựu của Cách mạng, về Đảng quang vinh, tự hào về Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, về những thành tựu mà nhân dân ta đã đạt được trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và đổi mới đất nước; cảm động và biết ơn về những hy sinh, đóng góp của Bác Hồ – vị Lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả tình cảm, trí tuệ và dành cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng. Tôi nhận thấy mình cũng cần phải có trách nhiệm với công cuộc xây dựng đất nước giàu đẹp, tiếp nối truyền thống vẻ vang của dân tộc Việt Nam, sống và học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh – tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam.

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ rất quan trọng và thường xuyên, qua đó để giáo dục, rèn luyện bản thân, xứng đáng là Đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, là “người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Và Đảng là tổ chức các mạng có sứ mệnh cao cả đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập và chủ nghĩa xã hội. Được đứng trong hàng ngũ của Đảng là được đứng trong một tổ chức của những người cùng chung chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội tốt đẹp, dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, tôi đã đặt ra mục tiêu trong thời gian tới được đứng trong đội ngũ của Đảng được phục vụ cách mạng, được phục vụ nhân dân, góp sức mình xây dựng đất nước ta ngày càng tốt đẹp hơn nữa, được Đảng và nhân dân tin cậy, yêu mến; chấp nhận hy sinh, phấn đấu, quyết tâm đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và dân tộc ta đã chọn là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.

Qua lớp bồi dưỡng lý luận chính trị dành cho đối tượng kết nạp Đảng, tôi hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng, từ đó tích cực góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra xứng đáng là đội kế cận của Đảng, là cánh tay của Đảng; thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng

1.1. Để phấn đấu để trở thành Đảng viên tôi hiểu mình phải tôi luyện trở thành người tích cực, tiên tiến, trải qua quá trình học tập, rèn luyện, phấn đấu, hội đủ các yếu tố thỏa mãn điều kiện để được xét kết nạp Đảng:

+ Người muốn được đứng trong đội ngũ của Đảng phải có quan điểm, lập trường chính trị đúng đắn, giác ngộ mục đích, lý tưởng của Đảng, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ do Đảng giao phó. Điểm 1, Điều 1 trong Điều lệ Đảng quy định: “Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân…”.

+ Người vào Đảng phải thừa nhận và thực hiện Điều lệ Đảng một cách vô điều kiện. Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Điều lệ Đảng cũng là thể hiện sự giác ngộ chính trị và ý thức phấn đấu, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tiền phong, gương mẫu, ý thức cầu thị, tinh thần đoàn kết, khiêm tốn, gắn bó với tập thể, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Người muốn vào Đảng phải nghiên cứu kỹ Điều lệ Đảng.

+ Người vào Đảng phải hiểu rõ và nắm vững tiêu chuẩn, nhiệm vụ đảng viên, từ đó phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng để trở thành đảng viên của Đảng. Tự giác thực hiện nhiệm vụ, phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, có quan hệ gắn bó với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm… là những điều kiện chủ yếu được quan tâm khi xem xét để kết nạp người vào Đảng.

+ Mỗi đảng viên của Đảng phải sinh hoạt tại một tổ chức cơ sở đảng. Điều đó tạo ra sự thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng

– Qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm: người muốn vào Đảng phải hoạt động trong phong trào quần chúng, tỏ rõ tính tích cực, tiên tiến so với quần chúng, cả về nhận thức, hành động và được quần chúng tín nhiệm. Phải lao động, học tập, công tác đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, có đạo đức, lối sống trong sạch, có khả năng cảm hoá, giáo dục, tập hợp quần chúng, được quần chúng tin cậy và noi theo. Đảng viên là người lãnh đạo quần chúng, vì vậy, người không được nhân dân tín nhiệm thì không thể là đảng viên.

1.2. Từ những điều kiện xem xét kết nạp Đảng viên của Đảng, tôi cần xây dựng kế hoạch, phương hướng phấn đấu trong thời gian tới:

– Qua lớp bồi dưỡng lý luận chính trị dành cho đối tượng kết nạp Đảng tôi đã hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng, từ đó tích cực góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra; thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vụ lợi, xa lạ với bản chất của người chiến sĩ cách mạng.

– Rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng:

“Đi lên thanh niên chớ ngại ngần chi

Đi lên thanh niên làm theo lời bác

Không có việc gì khó chỉ sợ lòng không bền

Đào núi và lấp biển quyêt trí ắt làm nên”

Giai điệu ấy đã tiếp thêm sức mạnh, niềm tin, ý chí để tôi hoàn thành các mục tiêu đã đặt ra hình thành bản lĩnh vững vàng, từ từ tôi rèn được bản lĩnh chính trị vững vàng hơn. Bản lĩnh chính trị được hình thành chủ yếu bằng nỗ lực của bản thân trong quá trình học tập, nắm vững lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng. Tích cực học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt, tích luỹ kiến thức và kinh nghiệm, làm giàu vốn hiểu biết của mình. Song song với rèn luyện bản lĩnh chính trị, thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng là kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện suốt đời, không ngừng nghỉ. Ngày nay, đạo đức cách mạng còn là ý chí, quyết tâm và góp sức đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh, nhân dân làm chủ xã hội và có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

– Nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao: trong giai đoạn …….. đang tái cơ cấu, tinh giản biên chế, tôi là một cán bộ trẻ, vừa được chuyển công tác sang một nghiệp vụ mới, nhận thấy trách nhiệm của tôi là tự giác trau dồi nghiệp vụ, chủ động trao đổi, học hỏi từ các đồng nghiệp, để nắm vững nghiệp vụ mới, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

– Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội: Một trong những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự gắn bó mật thiết, máu thịt với nhân dân. Từ khi được công tác tại …….., tôi luôn nhiệt tình tham gia sinh hoạt đoàn thể. Từ những hoạt động, những công trình, tôi đã tổ chức và tham gia thực hiện tôi đã có thêm được những đồng nghiệp cùng chung lý tưởng, mục đích chia sẻ những hoạt động tập thể: các công trình tặng quà, xây sân chơi cho các em học sinh vùng dân tộc thiểu số, thăm và tặng quà cho các gia đình khó khăn, tổ chức các hoạt động chăm lo đời sống cho con em cán bộ tại trụ sở chính ……..…. Từ những chương trình tôi tham gia đã góp phần phát huy vai trò của đoàn thể trong nhiệm vụ chính trị mà Đảng Bộ …….. giao cho Đoàn thanh niên ……… Phần nào đó tôi đã tập hợp hợp được lực lượng Đoàn viên thanh niên ở một số chi đoàn thực hiện các công trình,phần việc thanh niên, phát huy tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ Đoàn.

– Tích cực tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở:Bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tế của mình quan tâm đóng góp ý kiến với chi bộ, đảng bộ trong việc lãnh đạo cơ quan, đơn vị chấp hành tốt đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước: Chủ động nắm bắt tình hình thực tế, tình hình tư tưởng của thanh niên trong kết quả thực hiện chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng; kịp thời phản ánh, đề xuất với tổ chức Đảng; Tích cức hưởng ứng các phong trào, các hoạt động triển khai thực hiện chủ trương, nhiệm vụ do Chi bộ đề ra; Tích cực và mạnh dạn tham gia góp ý kiến đối với sự lãnh đạo của tổ chức Đảng và đội ngũ Đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên; Tham gia ý kiến, đề xuất đoàn viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để giới thiệu những quần chúng ưu tú có đủ điều kiện để Chi bộ xét kết nạp Đảng; tham gia góp ý kiến đối với hoạt động của đơn vị và đoàn thể, góp phần xây dựng cơ sở chính trong sạch, vững mạnh.

Tôi tin rằng trong tương lai không xa tôi sẽ vinh dự trở thành một Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, trở thành người chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam.

2. Đề xuất mới đối với Đảng để có bản lĩnh chính trị vững vàng và nhận thức đúng đắn về Đảng cộng sản Việt Nam cho đối tượng kết nạp Đảng và các quần chúng nói chung:

2.1. Thực trạng về bản lĩnh chính trị và nhận thức lý tưởng Đảng Cộng sản Việt Nam của cán bộ, Đoàn viên thanh niên hiện nay:

2.2. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đoàn viên thanh niên và quần chúng tại ……..

Để công tác tư tưởng góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng VDB lần II, Đại hội Đảng bộ Khối DNTW lần II, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Hội nghị TW 4 (khóa XII); trọng tâm là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đảng ủy …….. đã ban hành Nghị quyết 06/NQ-ĐU ngày 28/3/2017 về nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng chỉ rõ nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau: Kịp thời triển khai học tập, quán triệt đầy đủ nghị quyết, chỉ thị của Đảng tới toàn thể cán bộ, đảng viên trong tổ chức đảng, chỉ đạo xây dựng chương trình hành động để thực hiện nghị quyết;Tổ chức thực hiện chương trình hành động để thực hiện nghị quyết, nâng cao tính chiến đấu của tổ chức đảng và mỗi đảng viên; Công tác tổ chức và quản lý đảng viên; Tổ chức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết TW4 (khóa XII);Lãnh đạo công tác truyền thông; Lãnh đạo phát huy vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội.

3. Đề xuất mới gì đối với Đảng

2. Những thu hoạch cho bản thân về Đảng và Tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua khóa học bồi dưỡng lý luận chính trị

Sau quá trình tham gia khóa học bồi dưỡng lý luận chính trị dành cho đối tượng kết nạp Đảng do Đảng bộ …………tổ chức, tôi cảm thấy vinh dự và tự hào khi nhận được sự quan tâm, tin tưởng của Lãnh đạo, của Đảng bộ NHPT. Khóa học rất có ý nghĩa đối với cá nhân tôi và giúp tôi có thêm được nhiều kiến thức quý báu, sự hiểu biết sâu sắc về Đảng Cộng sản Việt Nam: về quá trình thành lập Đảng; về Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam; sự đóng góp xây dựng của thế hệ cha ông cho công cuộc xây dựng Đảng đặc biệt là Bác Hồ; sự kế thừa vun đắp và tích lũy kinh nghiệm của lịch sử Đảng vào sự phát triển của đất nước; về nội dung, những vấn để thực tiễn của Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Tôi được tiếp xúc, học tập cùng với các đồng nghiệp khác đến từ các đơn vị thuộc……… Hơn thế nữa tôi đã được rèn luyện nâng cao hơn về bản lĩnh chính trị, lý tưởng Đảng, phẩm chất đạo đức cách mạng, mục tiêu phấn đấu nhiều hơn nữa để được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Tôi xin trình bày chi tiết những thu hoạch cho bản thân sau khóa học, tôi xin trình bày về những kiến thức đã đạt trong tôi về Đảng Cộng sản Việt Nam và lý tưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh:

1. Nhận thức của tôi về Đảng Cộng sản Việt Nam:

1.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm sàng lọc của lịch sử đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam dưới ánh sáng của thời đại mới cùng sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, Phong trào công nhân và Phong trào yêu nước ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.

Trải dài theo dòng lịch sử của nước nhà, Đảng Cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân đi hết từ thắng lợi này cho tới thắng lợi khác. Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua, cho thấy sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cuộc chiến tranh xâm lược, tạo ra những trận chiến lịch sử lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới trong sự phát triển của dân tộc Việt Nam, đem lại cuộc sống bình yên, ấm no và hạnh phúc cho toàn dân tộc Việt Nam.

Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ, dân tộc ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dũng bất khuất. Hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn, phong trào chống thực dân Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau như khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ khoa Huân, phong trào Cần Vương, phong trào Đông Dương…Các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vô cùng anh dũng, nhưng chưa tìm được con đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của thời đại và xã hội nên đã bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và cuối cùng đều thất bại.

Trong lúc cách mạng Việt Nam đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Ngày 05/6/1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đi qua nhiều nước, vừa lao động vừa kiếm sống, quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm của các nước, rút ra bài học làm cơ sở cho lựa chọn con đường cách mạng của đất nước.

Năm 1917, Cách Mạng tháng 10 Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc. Nhưng bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Người chỉ đến khi Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin (vào tháng 7/1920). Từ đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, đó là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; cách mạng giải phóng dân tộc từng nước gắn với phong trào cách mạng vô sản trên thế giới… Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phòng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của cách mạng Việt Nam. Sự gắn kết giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chính là con đường tất yếu khách quan, hợp với quy luật phát triển của đất nước, bối cảnh thời đại, hợp lòng người:

Sau một thời gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng. Đến cuối những năm 20 của thế kỷ XX, ở nước ta, các tổ chứng cộng sản lần lượt được thành lập:

Chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã thành lập ba tổ chức cộng sản. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở nước ta lúc bấy giờ; đồng thời sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng đặt ra là cần có một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam.

Từ ngày 6/01 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán đảo Cửu Long, đã hợp nhất một đảng thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đó là cột mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng.

Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng đoàn kết, kiên cường, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Từ những thành tựu đã đạt đước của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã chứng tỏ chân lý: “…một dân tộc dù là nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác – Lênin để giành độc lập và dân chủ, thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đó cũng chứng tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp công nhân mà Đảng ta là đại biểu, chỉ có đường lối cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin mới có thể tạo điều kiện cho nhân dân ta đánh bại quân thù và giành tự do, độc lập”.

Cơ sở, nguồn gốc sức mạnh và truyền thống của Đảng là: Đảng đứng vững trên nền tảng tư tưởng tiên tiến của thời đại, đó là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng không chỉ nắm bắt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, mà còn vận dụng sáng tạo và phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Cơ sở, nguồn gốc sức mạnh của Đảng còn ở chỗ Đảng đã không ngừng phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tiếp thu những tinh hoa trí tuệ của nhân loại.

1.2. Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý trí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo cá nhân; là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của đân tộc Việt Nam, là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc:

Đảng ta đã quy tụ, đoàn kết chung quanh mình tất cả các giai cấp, các tầng lớp yêu nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, khẳng định sức mạnh của Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý trí và hành động đã đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trải qua các cuộc đấu tranh gian khổ, với ba cao trào cách mạng lớn (1930-1931, 1936-1939, 1939-1945), Đảng đã lãnh đạo Nhân dân đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng và tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng 8 năm 1945. Nhân dân Việt Nam đã đạp tan xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân và lật đổ chế độ phong kiến tay sai thối nát, Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập, tự do dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Ngay từ khi mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, mọi lực lượng của nước nhà còn rất non yếu. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối chính trị sáng suốt vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng ta đã động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân, triệu người như một, vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm để củng cố, giữ vững chính quyền, đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và đánh dấu bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

Tất cả thực tiễn phong phú, sôi động, hào hùng của dân tộc ta trong 90 năm qua ngày càng khẳng định rõ hơn nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Đảng vừa tròn 30 tuổi:

“Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao

Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.

Đảng ta là đạo đức, là văn minh,

Là thống nhất, độc lập, là hoà bình ấm no”

Đảng ta vĩ đại, trước hết chính vì Đảng tiêu biểu cho sức mạnh trí tuệ của giai cấp công nhân hiện đại, cho tiềm lực tinh thần truyền thống của dân tộc và tiếp thu được những tinh hoa của văn hoá nhân loại. Ngay từ khi thành lập, sức mạnh của Đảng nằm ngay trong ba yếu tố hợp thành của Đảng: chủ nghĩa Mác- Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn đặt lợi ích của nhân dân, của dân tộc lên trên hết, đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa làm nên sức mạnh đoàn kết rất đáng tự hào của Đảng ta, đã tạo nên uy tín lãnh đạo của Đảng đối với toàn dân tộc; làm cho Đảng được dân tin, dân phục, dân yêu mến, dân giúp đỡ, ủng hộ và bảo vệ.

Lịch sử 90 năm xây dựng và phát triển của Đảng đã chứng tỏ, cội nguồn sức mạnh của Đảng không chỉ thể hiện ở chỗ mọi hoạt động của Đảng đều xuất phát vì lợi ích của nhân dân mà còn thể hiện Đảng luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin tưởng, ủng hộ và che chở. Lãnh tụ Hồ Chí Minh coi việc hoạch định đường lối chính sách của Đảng không chỉ là công việc của bản thân Đảng mà còn phải biết phát huy trí tuệ của toàn dân vào việc xây dựng đường lối của Đảng: “Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết”. Đảng đã nhận thức sâu sắc: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng đã tổ chức và phát huy được lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân”.

Khi tổng kết những kinh nghiệm quý sau hơn 30 năm đổi mới, một trong những bài học quan trọng hàng đầu được Đại hội X của Đảng đúc kết là bài học “lấy dân làm gốc”: “Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển, đó là chìa khóa của thành công”.

Nhìn lại chặng đường đấu tranh đầy khó khăn, thử thách nhưng vô cùng oanh liệt của Đảng ta trong chín thập kỉ qua, tôi nhận ra bài học “lấy dân làm gốc”, trân trọng quá khứ, nâng niu giữ gìn những thành quả cách mạng của cách mạng, càng thấm thía và biết ơn vô hạn công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các thế hệ đảng viên đã xả thân vì nền độc lập, thống nhất của đất nước, càng thêm tự hào về Đảng ta, nhân dân và dân tộc Việt Nam ta.

1.3. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn đứng vững trên lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lợi ích của nhân dân, của dân tộc, coi đó là điểm xuất phát của mọi đường lối, chủ trương của Đảng. Ngay Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng phản ánh đúng quy luật khách quan, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, đáp ứng đúng yêu cầu của thực tiễn, vạch ra được mục tiêu, phương hướng và giải pháp cơ bản của cách mạng. Từ đó tiến hành tập hợp, tổ chức, động viên toàn thể nhân dân biến đường lối của Đảng thành hành động cách mạng của quần chúng. Tinh thần cơ bản của bản Cương lĩnh ấy được phát triển, cụ thể hoá đáp ứng những nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và từng bước xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Ngay sau khi giành được chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì”. Mục tiêu của Đảng là làm cho mọi người dân ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, được sống ấm no và sung sướng; mang lại quyền làm chủ về kinh tế, xã hội cũng là thước đo trình độ giải phóng xã hội, sự phát triển của xã hội.

1.4. Đảng ta luôn kiên định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội:

Lý luận và thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đều khẳng định: con đường duy nhất đúng để đất nước phát triển bền vững là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; là sự lựa chọn kiên quyết và đúng đắn, là sự kiên định và sáng tạo của Đảng ta dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp quy luật, đúng như Đại hội lần thứ XII (2016) của Đảng khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”

Khi vừa mới ra đời, với đường lối cách mạng cứu nước đúng đắn trong Cương lĩnh, Con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội để đi tới xã hội cộng sản chủ nghĩa được chỉ rõ là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” – tức là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng, từng bước đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hai giai đoạn cách mạng này có quan hệ biện chứng; trong đó: 1) Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải giành được độc lập dân tộc. 2) Đi lên chủ nghĩa xã hội chính là điều kiện tiên quyết để giữ vững được độc lập dân tộc và xây dựng được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam có những thuận lợi song cũng có không ít khó khăn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991). Đại hội đưa ra quan niệm tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, phương hướng cơ bản để xây dựng xã hội ở nước ta. Cương lĩnh năm 1991 khẳng định: chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo của Đảng.

Tiếp đó, kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII nhấn mạnh: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa” 14. Đại hội Đảng lần thứ IX cũng tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” 15. Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng khẳng định nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng cơ bản; đồng thời, nhấn mạnh bài học số một là: Trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tại Đại hội XI của Đảng (2011) đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn mà Cương lĩnh năm 1991 rút ra từ 60 năm cách mạng Việt Nam: (1) tiếp tục nhấn mạnh bài học đầu tiên “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”là điều kiện tiên quyết, nhiệm vụ chiến lược gắn liền với xây dựng CNXH; (2) sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; (3) không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế; (4) kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế; (5) sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, hơn bao giờ hết, bài học “kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới”, tập trung giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở Việt Nam (giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế) càng phải được chủ động bám sát và kiên trì thực hiện.

Cương lĩnh thời, khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử” 16. Cương lĩnh nêu những nội dung cơ bản của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; bổ sung, phát triển những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng với 8 đặc trưng cơ bản: 1) Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh; 2) Do Nhân dân làm chủ; 3) Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; 4) Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 5) Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; 6) Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; 7) Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; 8) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới; 8 phương hướng cơ bản và những mối quan hệ lớn cần phải nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều đó cũng khẳng định rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc và là hai mặt không thể tách rời của con đường phát triển đất nước, hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

1.5. Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:

Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.

Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.

Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Căn cứ vào yêu cầu và điều kiện cụ thể của công cuộc đổi mới, Đại hội XII (4/2016) đã xác định các nhiệm vụ trụ cột của cách mạng nước ta hiện nay là: phát triển kinh tế – xã hội là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt; xây dựng văn hóa, con người là nền tảng tinh thần của xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu thường xuyên. Trong gần 35 năm đổi mới, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta, dân tộc ta ngày càng rõ ràng và đầy đủ hơn.

Những thành tựu đã đạt được đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

Học tập, nghiên cứu lịch sử và truyền thống của Đảng để tự hào về Đảng và góp phần giữ vững, kế thừa, phát huy những truyền thống đó, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm thời đại mới.

2. Đạo đức, tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và Nhân dân ta. Tư tưởng của Người là “nguồn sáng dẫn đường”, là kim chỉ nam cho Đảng và Nhân dân ta tiến bước; đạo đức và phong cách của Người là tấm gương sáng để mỗi chúng ta tự soi rọi bản thân mình. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, phải được thực hiện thường xuyên, liên tục trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.

Hồ Chí Minh là một lãnh tụ thiên tài của Đảng và Nhân dân ta, là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc, là Danh nhân văn hóa thế giới. Ham muốn tột bậc của người thật là giản dị: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”…

2.1. Hình ảnh tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong tôi:

Suốt cuộc đời, Bác hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Tháng 6/1911, Bác lên con tàu rời đất nước, vừa lao động vừa kiếm sống để tìm đường cứu nước. Đất nước đầu tiên Bác đến là nước Pháp, trung tâm của châu Âu lúc bấy giờ, là quốc gia đang đô hộ đất nước Việt Nam. Hình ảnh Bác ra đi tìm đường cứu nước luôn được các nhà thơ, nhà văn, nhà giáo truyền đạt lại cho thế hệ sau về người cách mạng có trái tim nồng nàn yêu nước, sự chịu đựng kiên cường, đức hi sinh cao cả với quyết tâm tìm ra con đường cứu dân, cứu nước:

“Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê

Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá

Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ

Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?

Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể

Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi

Những đất tự do, những trời nô lệ

Những con đường cách mạng đang tìm đi

Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước

Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà

Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc

Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa

Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây?

Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?

Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ

Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?

Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao?

Nụ cười sẽ ra sao?

Ơi, độc lập!”

Trích: Người đi tìm hình của nước – Chế Lan Viên

Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành, phát triển sau hàng chục năm Người bôn ba ở nước ngoài và lao mình vào hoạt động thực tiễn, đồng thời không ngừng học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển một cách linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào tình hình thực tế của nước ta. Song song đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại.

Người đã gắn bó và hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân đến hơi thở cuối cùng. Bác Hồ là bậc vĩ nhân hiếm có, một vị lãnh tụ tài đức vẹn toàn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho các thế hệ hôm nay và mai sau một di sản đồ sộ, vô cùng quý giá và thiêng liêng, đó là tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh!

Nhiều nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế cho rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà tư tưởng lỗi lạc mà chính bản thân Người, với những việc làm hàng ngày trong cuộc sống thường nhật là hiện thân của nền văn hóa Việt Nam, là mẫu mực của con người Việt Nam. Tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh hết sức trong sáng và vô cùng cao thượng, là sự kết tinh của nền văn hóa Việt Nam và tinh hoa văn hóa nhân loại. Là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta; là tấm gương sáng để mọi người Việt Nam học tập và noi theo.

2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểmtoàn diện sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp vủa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của Nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của Nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân; về chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần-kiệm-liêm-chính, chí công-vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, về xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh; cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân….

Theo Nghị quyết Đại hội IX, hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh gồm 9 nội dung:

+ Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người;

+ Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;

+ Tư tưởng về sức mạnh của Nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc;

+ Tư tưởng về quyền làm chủ của Nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân;

+ Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân;

+ Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân;

+ Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;

+ Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau;

+ Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vũng mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân…

– Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng, dân tộc Việt Nam.

+ Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta giành thắng lợi. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng ta và Nhân dân ta trên con đường thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

+ Giá trị quốc tế của tư tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng thời đại, không chỉ là sản phẩm của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam, mà còn là sản phẩm của thời đại, của nhân loại tiến bộ. Người nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại, đặt cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa vào phạm trù cách mạng vô sản và hoạt động không mệt mỏi cho phong trào cách mạng thế giới. Người kiên quyết bảo vệ và phát triển quan điểm của V.I. Lênin về khả năng to lớn và vai trò chiến lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa đối với cách mạng vô sản.

Từ kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam, Người đi đến khẳng định bài học chung của các dân tộc: “… trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong mặt trận thống nhất, với sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trước hết là của phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng lợi”Hồ Chí Minh: toàn tập, Sđd, t.12, tr 31.

Những tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ mãi mãi là chân lý sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo và phát triển của nhân loại. Góp phần cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả.

2.3. Những nội dung chủ yếu của đạo đức Hồ Chí Minh:

Theo Người thì đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người nói: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”

Vì thế đạo đức là cái gốc của người cách mạng, một người muốn trở thành người cách mạng phải lấy đạo đức làm gốc và thường xuyên rèn luyện đạo đức “Cũng như ngọc, càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Sinh thời Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc rèn luyện đạo đức, coi việc rèn luyện đạo đức trong đội ngũ cán bộ như một việc làm thường xuyên, giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng đạo đức cách mạng. Người nói rằng: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”

Đối với Đảng, đội tiên phong của giai cấp công nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch, người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”

Quan điểm của Hồ Chí Minh về những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam: với đất nước với dân tộc phải Trung với nước, hiếu với dân; với mọi người phải “Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình; với mình phải thực sự “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; mở rộng quan hệ yêu thương con người đối với toàn nhân loại, người cách mạng phải có “Tinh thần quốc tế trong sáng”.

Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản vĩ đại, nhưng đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một người Việt Nam chân chính, bình thường, gần gũi, ai cũng có thể học theo, làm theo, để trở thành một người cách mạng, người công dân tốt hơn trong xã hội.

2.3. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên cần làm tốt các mặt sau đây:

Một là, thực hiện “trung với nước, hiếu với dân”, mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thành vô hạn với mục tiêu lý tưởng của Đảng, của dân tộc, tham gia tích cực vào việc đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;

Hai là, thực hiện đúng lời dạy: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, nêu cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới.

Ba là, nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phục vụ.

Bốn là, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

Từ ngày thành lập, Đảng đã dựa trên tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để xác định đường lối Cách mạng Việt Nam, Đại hội II của Đảng đã nêu khẩu hiệu: “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Lời thề của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đọc trong lễ truy điệu Người đã khẳng định: Suốt đời học tập đạo đức, tác phong của Người, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh, rèn luyện mình thành những chiến sĩ trung thành với Đảng, với dân, xứng đáng là đồng chí, là học trò của HỒ CHỦ TỊCH”.

Bắt đầu đường lối mới toàn diện đất nước, trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội VI của Đảng (1986) đã yêu cầu: “Mỗi người cộng sản chúng ta cần phải suốt đời học tập, soi gương đạo đức, tác phong của Bác Hồ, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, ghi nhớ và làm theo lời dạy của Người, nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, xứng đáng là người lãnh đạo và người đầy tớ trung thành của nhân dân”

Tại Đại hội VII (năm 1991), lần đầu tiên Đảng ta khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng. Tiếp theo chủ trương tổ chức học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được bắt đầu từ Hội nghị Trung ương 12 khóa IX (năm 2005). Đại hội lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Đưa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở thành nhiệm vụ thường xuyên của cán bộ, đảng viên, tổ chức Đảng”.

Qua 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Việc thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân có nhiều tiến bộ… Đa số cán bộ, đảng viên phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu, năng động, sáng tạo trong công tác, rèn luyện phẩm chất, năng lực, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới.

Tuy nhiên, trong Đảng và trong xã hội ta hiện nay đã xuất hiện tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn; một số rất ít cán bộ, đảng viên bị phần tử xấy lợi dụng, lôi kéo, kích động, xúi giục, mua chuộc đã có tư tưởng, việc làm chống đối Đảng, Nhà nước”.

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII tiếp tục chỉ ra: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước… Trong khi đó, sự uy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, ngày 15/5/2016, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Chỉ thị số 05 – CT/TW tiếp tục khẳng định: “đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị – xã hội, địa phương, đơn vị gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII, mục đích, yêu cầu của việc tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã được nâng cao hơn, phạm vi rộng hơn so với Chỉ thị số 06 – CT/TW và Chỉ thị số 03 – CT/TW; trong đó có nhiệm vụ chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Về nội dung, lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh không chỉ về chính trị, tư tưởng, tổ chức, mà còn nhấn mạnh xây dựng Đảng về đạo đức. Đại hội cũng đã đưa việc học tập “phong cách Hồ Chí Minh” vào trong văn kiện chính thức của Đại hội.

Từ những phân tích nêu trên, có thể khẳng định: Triển khai việc học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; nền tảng tư tưởng, cơ sở lý luận của công cuộc đổi mới, từ thực tiễn và kinh nghiệm của quá trình học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Góp phần để nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, giải quyết các vấn đề cấp bách nêu trên và có ý nghĩa lâu dài.

3. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với các quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế – xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng, đối ngoại… của Đảng và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, những năm qua, nước ta đã giành được nhiều thắng lợi trên con đường cách mạng, từng bước xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Một số thành tựu tiêu biểu của cách mạng Việt Nam và công cuộc đổi mới đất nước:

+ Về chính trị: nước ta trở thành một quốc gia có chế độ chính trị độc lập; thể chế, hệ thống chính trị từng bước hoàn thiện và có bước phát triển;nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ; dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát triển

+ Về kinh tế – xã hội: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế từng bước được đẩy mạnh; phát huy lợi thế ngành và lãnh thổ; Từ một nền kinh tế từ thế bị bao vây, cấm vận, khép kín sang nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế; trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình Chính sách xã hội được quan tâm, đời sống nhân dân được cải thiện, không ngừng nâng cao.

+ Về văn hóa: Văn hóa phát triển đa dạng, phong phú; Nhiều phong trào, cuộc vận động về văn hóa đạt kết quả tích cực, góp phần tạo môi trường văn hóa, bảo vệ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; Công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc đạt nhiều kết quả; di sản văn hóa đang trở thành tài nguyên độc đáo của du lịch Việt Nam.

+ Về xã hội: Chính sách xã hội được quan tâm, đời sống nhân dân được cải thiện, không ngừng nâng cao. Đến năm 2000, cơ bản xóa xong tình trạng đói kinh niên; Chỉ số phát triển con người không ngừng tăng lên.

+ Về y tế: Công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân được tăng cường; Mạng lưới y tế được mở rộng, nhất là y tế cơ sở, 100% số xã có trạm y tế hoặc có phòng khám đa khoa khu vực liên xã; 87,5% số trạm y tế xã có bác sĩ làm việc (bao gồm cả bác sĩ làm việc lâu dài và bác sĩ tuyến trên luân phiên về làm việc hai, ba ngày trong tuần); Chủ động sản xuất được nhiều vắcxin phòng bệnh; Kiểm soát và ngăn ngừa nhiều dịch bệnh nguy hiểm (thanh toán bệnh đậu mùa vào năm 1978, thanh toán bệnh bại liệt vào năm 2000, loại trừ uốn ván sơ sinh vào năm 2005, từ năm 2002 không có bệnh dịch hạch; là một trong những quốc gia đầu tiên khống chế thành công dịch SARS, cúm A/H5N1, cúm A/H1N1; ngăn chặn thành công không để một số dịch bệnh nguy hiểm mới nổi xâm nhập như cúm A/H7N9, Ebola, MERS-CoV…; tất cả bệnh truyền nhiễm mới nổi đến nay, Việt Nam đều có khả năng xét nghiệm và phát hiện bệnh như MERS-CoV, Ebola, cúm A/H7N9 hay COVID-19, v.v…).

+ Về giáo dục, đào tạo: Quy mô giáo dục phát triển nhanh, thực hiện nền giáo dục toàn dân, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân; Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên; Hợp tác quốc tế được đẩy mạnh (Tính đến năm 2019, cả nước có tổng số 455 dự án FDI thuộc lĩnh vực giáo dục đào tạo; các nước đã cấp khoảng 1.400 suất/năm cho lưu học sinh Việt Nam đi học tập ở các trình độ từ đại học đến tiến sĩ và thực tập, nghiên cứu ở nước ngoài).

+ Về quốc phòng – an ninh: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị – xã hội, trật tự an toàn xã hội và môi trường hòa bình để tập trung xây dựng và phát triển đất nước; Xây dựng toàn diện nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; Tiềm lực quốc phòng và an ninh được tăng cường; xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; Hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh đạt nhiều kết quả.

+ Về đối ngoại và hội nhập quốc tế: Công tác đối ngoại đã góp phần duy trì, củng cố môi trường hòa bình ổn định, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; đóng góp tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội (Việt Nam chủ động tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) năm 1998, Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) năm 2007. Tham gia tích cực, có trách nhiệm với các diễn đàn khu vực và quốc tế như Hội đồng nhân quyền Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2014 – 2016, Ủy ban Kinh tế – xã hội Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2016 – 2018, Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013 – 2017, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc…).

Những thắng lợi, thành tựu to lớn của nước ta những năm qua đã chứng minh con đường cách mạng mà Đảng, Nhân dân ta lựa chọn là đúng đắn. Thực tiễn đã cho thấy dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã giành được độc lập, thống nhất đất nước và tiến hành công cuộc đổi mới, thu được những thành tựu làm thay đổi căn bản đời sống xã hội, được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

3. Liên hệ bản thân với việc tự phấn đấu và rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu Đảng viên

Để tự phấn đấu và rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu Đảng viên, cần thực hiện tốt các điều sau:

1. Thực hiện tốt tiêu chuẩn đảng viên được quy định trong Điều lệ Đảng:

Một là, về lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị.

Hai là, về nhận thức, kiến thức, năng lực toàn diện thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.

Ba là, về phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, mà nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; có tinh thần quốc tế trong sáng, luôn xứng đáng với người lãnh đạo và người đầy tớ trung thành của nhân dân… Những lời dạy đó của Người đến nay vẫn giữ nguyên vẹn giá trị và có ý nghĩa to lớn trong thời kỳ đổi mới.

Bốn là, có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng trên cơ sở thực hiện đúng các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình.

Năm là, có quan hệ mật thiết với quần chúng.

Sáu là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.

2. Không ngừng tự phấn đấu, rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu người đảng viên cộng sản:

Khái niệm “đảng viên” bao hàm hai mặt: cá nhân một con người mang danh hiệu đảng viên và một thành viên của Đảng (của một tổ chức đảng cụ thể và của toàn Đảng nói chung). Người đảng viên chỉ xứng đáng với danh hiệu cao quý của mình khi làm tròn bổn phận trên cả hai tư cách đó, nhờ sự phấn đấu của bản thân và sự giúp đỡ, tạo điều kiện của tổ chức đảng.

Về mặt cá nhân: Trước hết mỗi người đảng viên phải rèn luyện mình theo những đức tính của con người Việt Nam, đó là:

Về tư cách đảng viên thành viên của tổ chức đảng:

Về vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân:

2. Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới 2020

Câu hỏi bài thu hoạch lớp cảm tình Đảng mới nhất 2020.

1. Trình bày định hướng về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam?

2. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên như thế nào? Anh/chị cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam?

3. Phân tích nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.

4. Anh/chị hãy viết một bài luận (khoảng 2.000 từ) về một trong các chủ đề sau đây:

– Chủ đề 1: Cách mạng công nghiệp 4.0 và yêu cầu đối với giáo dục đại học Việt Nam?

– Chủ đề 2: Khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo

– Chủ đề 3: Hội nhập quốc tế

Mỗi học viên chọn một trong 3 chủ đề, trình bày theo bố cục gợi ý:

+ Bối cảnh, tầm quan trọng của chủ đề đã lựa chọn;

+ Thực trạng, nhận thức của bản thân;

+ Nhiệm vụ, giải pháp phấn đấu;

+ Đề xuất, kiến nghị (nếu có).

5. Vấn đề mà Anh/chị tâm đắc nhất khi tham gia lớp bồi dưỡng đối tượng kết nạp Đảng; anh/chị có những kiến nghị, đề xuất gì cho công tác tổ chức, giảng dạy… với Ban Tổ chức lớp học nhằm rút kinh nghiệm để tổ chức tốt hơn các lớp bồi dưỡng đối tượng kết nạp Đảng tiếp theo?

Gợi ý làm bải thu hoạch cảm tình Đảng 

Câu 1: Định hướng về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam?

Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay

a) Tính nhất nguyên chính trị

Chế độ chính trị Việt Nam là thể chế chính trị một Đảng duy nhất cầm quyền. Hệ thống chính trị ở Việt Nam là thế chế nhất nguyên chính trị, không tồn tại các đảng chính trị đối lập.

Hệ thống chính trị Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam.

Tính chất nguyên chính của hệ thống chính trị được thể hiện ở tính nhất nguyên tư tưởng. Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

b) Tính thống nhất

Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò, chức năng khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành một thể thống nhất.

Tính thống nhất của hệ thống chính trị nước ta được xác định bởi các yếu tố sau:

+ Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam.

+ Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

+ Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập trung dân chủ.

+ Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa phương, với các bộ phận hợp thành.

c) Gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân

Đây là đặc điểm có tính nguyên tắc của hệ thống chính trị Việt Nam. Đặc điểm này khẳng định hệ thống chính trị Việt Nam không chỉ gắn với chính trị, quyền lực chính trị, mà còn gắn với xã hội. Trong hệ thống chính trị, có các tổ chức chính trị (như Đảng, Nhà nước), các tổ chức vừa có tính chính trị, vừa có tính xã hội (như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội khác). Do vậy, hệ thống chính trị không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội (như những lực lượng chính trị áp bức xã hội trong các xã hội có bóc lột), mà là một bộ phận của xã hội, gắn bó với xã hộ. Cầu nối quan trọng giữa hệ thống chính trị với xã hội chính là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội.

Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện trên các yếu tố:

+ Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cầm quyền.

+ Nhà nước là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

+ Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức của chính các tầng lớp nhân dân.

+ Hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

d) Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của hệ thống chính trị

Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống chính trị đại diện cho nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân được đại diện bởi các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Do vậy, hệ thống chính trị nước ta mang bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc sâu sắc.

Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được khẳng định trong bản chất của từng tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân, cũng đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Sự phân biệt giữa dân tộc và giai cấp mang tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng.

Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị

Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền. Đó là sự lựa chọn của dân tộc ta, là một tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan. Sự lãnh đạo ấy vừa có cơ sở đạo lý, vừa có cơ sở pháp lý.

Khi trở thành một Đảng duy nhất cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện trong mối quan hệ khá phức tạp và nhạy cảm với cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước pháp quyền và trong các điều kiện xây dựng, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước, mà biểu hiện tập trung nhất là bộ máy nhà nước, đòi hỏi phải phân định sự lãnh đạo của Đảng đối với vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước.

Trong tổ chức của hệ thống chính trị, Đảng ta vừa là lực lượng lãnh đạo toàn bộ hệ thống, vừa là thành viên trong hệ thống chính trị. Điều đó cũng đòi hỏi phải xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, tư cách thành viên của Đảng và khả năng độc lập của mỗi thành viên thuộc hệ thống chính trị trong các mối quan hệ chính trị và sinh hoạt dân chủ.

Trong thực tiễn, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng luôn luôn được xác định trong từng mối quan hệ với từng thiết chế, tổ chức cụ thể trong hệ thống chính trị. Vai trò cầm quyền và sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước khác với sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc hoặc đối với các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân. Sự mơ hồ, thiếu cụ thể nào đó đều có ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống chính trị của đất nước, hoặc là Đảng sẽ bao biện, làm thay tất cả, hình thức hóa Nhà nước và hệ thống chính trị, hoặc là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, làm cho địa vị cầm quyền của Đảng chỉ tồn tại trên danh nghĩa.

Sự lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị hiện nay đặt trong điều kiện mới, đó là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy mạnh mẽ nền dân chủ trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị, Đảng phải tự đổi mới và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Tăng cường mối quan hệ của Đảng với các thành tố của hệ thống chính trị là một nội dung quan trọng của đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Câu 2: Nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên

Mời các bạn tham khảo tại đây.

Phấn đấu như thế nào để trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam

Mời các bạn tham khảo bài viết cách phấn đấu để trở thành Đảng viên trên Thiquocgia.vn.

Câu 3: Phân tích nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả tình cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người Việt Nam.

Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ rất quan trọng và thường xuyên, qua đó để giáo dục, rèn luyện mình, xứng đáng là đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, là “người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.

1. Thực hiện chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh “Trung với nước, hiếu với dân” cần quán triệt những nội dung của chủ nghĩa yêu nước trong giai đoạn mới; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.

Tư tưởng và phẩm chất đạo đức tiêu biểu của Hồ Chí Minh là tinh thần yêu nước nồng nàn, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, toàn tâm, toàn ý cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ quyết tâm “ dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được tự do, độc lập”, để rồi phấn đấu cho “ đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, để nước ta “ sánh vai với cường quốc năm châu”. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta cần:

– Mỗi người cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to lớn của ông cha để chúng ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do, thống nhất trọn vẹn hôm nay.Nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm của mỗi người Việt Nam chân chính. Trung với nước ngày nay là trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hóa, bảo vệ Đảng, chế độ, nhân dân và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước.

– Trung với nước, hiếu với dân ngày nay là luôn luôn tôn trọng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân dưới cả ba hình thức: làm chủ đại diện, làm chủ trực tiếp và tự quản cộng đồng; hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết kịp thời những yêu cầu, kiến nghị hợp tình, hợp lý của dân; khắc phục cho được thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước những khó khăn, bức xúc… của nhân dân.
– Trung với nước, hiếu với dân ngày nay thể hiện ở ý chí vươn lên quyết tâm vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, góp phần dựng xây đất nước phồn vinh, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, theo kịp trình độ các nước phát triển trong khu vực và thế giới; thực hiện bằng được mong ước của Bác Hồ kính yêu: “xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.

– Trung với nước, hiếu với dân là phải luôn luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan, đơn vị; kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ của các thế lực thù địch, cơ hội hòng chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân. Đoàn kết là yêu nước, chia rẽ là làm hại cho đất nước. Mọi biểu hiện cục bộ, bản vị là trái với tinh thần yêu nước chân chính.

– Trung với nước hiếu với dân là phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; quyết tâm phấn đấu để thành đạt và cống hiến nhiều nhất cho đất nước, cho dân tộc; quyết tâm xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh. Phải có tinh thần ham học hỏi, phát huy truyền thống hiếu học và quý trọng nhân tài của ông cha ta; biết vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học, công nghệ hiện đại, các sáng kiến trong sản xuất, công tác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Mọi sự bảo thủ, trì trệ, lười học tập, ngại lao động, đòi hỏi hưởng thụ vượt quá khả năng và kết quả cống hiến là trái truyền thống đạo lý dân tộc và trái với tư tưởng yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

– Trung với nước, hiếu với dân yêu cầu mỗi chúng ta phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân – gia đình – tập thể – xã hội; quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu nước là sẵn sàng phấn đấu hy sinh cho lợi ích chung, việc gì có lợi cho dân, cho nước, cho tập thể thì quyết chí làm, việc gì có hại thì quyết không làm. Làm việc gì trước hết phải vì tập thể, vì đất nước, vì nhân dân, phải nêu cao trách nhiệm của người lãnh đạo, không tham lam, vụ lợi, vun vén cá nhân…

2. Thực hiện đúng lời dạy: “Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư ” nêu cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới

“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là chuẩn mực đạo đức truyền thống trong quan hệ “đối với mình”, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, vận dụng và phát triển phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, trở thành chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng. Người là một tấm gương mẫu mực về “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Học tập và làm theo tấm gương của Người, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong giai đoạn hiện nay là:

– Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; biết quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức; biết sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà nước, của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả.

– Thực hiện chí công, vô tư là kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng. Đối với cán bộ lãnh đạo, đảng viên phải loại bỏ thói chạy theo danh vọng, địa vị, giành giật lợi ích cho mình, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt của công, thu vén cho gia đình, cá nhân…, cục bộ, địa phương chủ nghĩa. Phải thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; chân thành, khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, không bao che, giấu giếm khuyết điểm…

– Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư phải kiên quyết chống bệnh lười biếng, lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, miệng nói lời cao đạo nhưng tư tưởng, tình cảm và việc làm thì mang nặng đầu óc cá nhân, tư lợi, việc gì có lợi cho mình thì “hăng hái”, tranh thủ kiếm lợi, việc gì không “kiếm chác” được cho riêng mình thì thờ ơ, lãnh đạm. Không làm dối, làm ẩu, bòn rút của công, ăn bớt vật tư, tiền của của Nhà nước và của nhân dân. Phải có thái độ rõ rệt lên án và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội.

3. Nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phục vụ

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao dân chủ và kỷ luật và chính Người là một mẫu mực về tinh thần dân chủ, tôn trọng tập thể, tôn trọng quần chúng nhân dân, luôn luôn quan tâm đến mọi người, gắn bó với nhân dân. Người luôn luôn phê phán “óc lãnh tụ”, phê phán thói “quan cách mạng”, phê phán những biểu hiện quan liêu, coi thường quần chúng, coi thường tập thể, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là những căn bệnh khác nhau của chủ nghĩa cá nhân.

– Học tập và làm theo Người, mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương. Mọi biểu hiện dân chủ hình thức, lợi dụng dân chủ để “kéo bè, kéo cánh”, để làm rối loạn kỷ cương, để cầu danh, trục lợi hoặc chuyên quyền, độc đoán, đứng trên tập thể, đứng trên quần chúng…, làm cho nhân dân bất bình, cần phải lên án và loại bỏ.

– Học tập đạo đức Hồ Chí Minh tất cả vì nhân dân, mỗi cán bộ, đảng viên, dù ở bất cứ cương vị nào phải gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân. Phải trăn trở và thấy trách nhiệm của mình khi dân còn nghèo đói. Không chỉ sẻ chia và đồng cam, cộng khổ với nhân dân, mà còn phải biết tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của dân, tổ chức, động viên, lãnh đạo nhân dân phấn đấu thoát khỏi đói nghèo. Nhân dân là người thầy nghiêm khắc và nhân ái, luôn luôn đòi hỏi cao ở cán bộ, đảng viên, đồng thời cũng sẵn lòng giúp đỡ cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ, phát huy ưu điểm, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm.

– Học tập đạo đức Hồ Chí Minh phải rất coi trọng tự phê bình và phê bình. Người dạy cán bộ, đảng viên và mọi người chúng ta: không sợ khuyết điểm, không sợ phê bình, mà chỉ sợ không nhận ra khuyết điểm, sai lầm và không có quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, sẽ dẫn đến khuyết điểm ngày càng to và hư hỏng. Tự phê bình phải được coi trọng, được đặt lên hàng đầu, theo tư tưởng Hồ Chí Minh “phải nghiêm khắc với chính mình”. Phê bình phải có mục đích là xây dựng tổ chức, xây dựng con người, xây dựng đời sống tình cảm và quan hệ đồng chí, quan hệ xã hội lành mạnh, trong sáng, có lý, có tình. Phải khắc phục bệnh chuộng hình thức, thích nghe lời khen, (thậm chí xu nịnh), tâng bốc nhau, không dám nói thẳng, nói thật để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đồng thời, cần phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân, vụ lợi mà “đấu đá”, nhân danh phê bình để đả kích, lôi kéo, chia rẽ, làm rối nội bộ.

4. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trong điều kiện toàn cầu hóa, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế bắt nguồn từ tình yêu thương đối với con người, với nhân loại và đoàn kết toàn nhân loại vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Người là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Nhờ đó mà nhân dân thế giới kính yêu Người, trao tặng Người danh hiệu nhà văn hóa kiệt xuất trên thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Từ chủ nghĩa quốc tế cao cả, Người đã xây dựng nên tình đoàn kết quốc tế rộng lớn của dân tộc ta với các dân tộc trên thế giới, góp phần quan trọng vào những thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta và phong trào cách mạng thế giới.

– Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hóa, việc mở rộng tình đoàn kết quốc tế, hợp tác cùng có lợi, chủ động, tích cực hội nhập là một nguồn lực quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước. Đoàn kết quốc tế trong sáng là thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy với các quốc gia trên thế giới, phấn đấu vì độc lập, hòa bình, hợp tác và phát triển

– Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở rộng hợp tác cùng có lợi, phấn đấu vì hòa bình, phát triển, chống chiến tranh, đói nghèo, bất công, cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế. Khép lại những vấn đề của quá khứ, lịch sử, xoá bỏ mặc cảm, hận thù, nhìn về tương lai, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc.

– Học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, kiên quyết đấu tranh chống tâm lý tự ty, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi; phê phán các biểu hiện vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa tư bản.

Sự nghiệp đổi mới đất nước đã và đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với sự hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam, đồng thời tạo ra những thuận lợi và những thử thách mới đối với mỗi chúng ta trong lĩnh vực đạo đức. Hơn lúc nào hết, hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta phải quan tâm đầy đủ đến vấn đề đạo đức, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức đúng đắn, tiến bộ; đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện và tăng cường quản lý đạo đức trong Đảng và trong nhân dân. Kế thừa truyền thống đạo đức tốt đẹp của ông cha, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những biện pháp quan trọng để khắc phục sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm lành mạnh nền đạo đức xã hội, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, xã hội, tạo động lực cho sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững. Vấn đề cơ bản nhất khi thực hiện cuộc vận động là mỗi người chúng ta phải nhận thức đầy đủ vị trí của vấn đề đạo đức, thường xuyên tự giác, nỗ lực học tập, rèn luyện, tu dưỡng theo gương Bác Hồ vĩ đại.

3. Câu hỏi cơ bản thường gặp trong bài thu hoạch lớp cảm tình Đảng

Tại sao anh/chị muốn vào Đảng? Hoặc xác định động cơ anh/chị vào Đảng đúng đắn nhất?

Khi gặp câu hỏi này, bạn có thể liên hệ tới suy nghĩ của bản thân mình, dưới đây là một số gợi ý về câu trả lời:

Để trở thành Đảng viên, người vào Đảng cần có đủ các điều kiện và yếu tố gì?

4. Bài thu hoạch cảm tình Đảng

LỜI NÓI ĐẦU​

Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến. Đảng hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đang trong công cuộc đổi mới, xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của tổ quốc. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

NỘI DUNG​

Câu 1: Nhận thức về Đảng Cộng sản Việt Nam và nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở cương lĩnh chính trị và điều lệ Đảng, giữ mối quan hệ mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo tôn trọng và phát huy vai trò của nhà nước, mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội. Đảng kết hợp với chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, Đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng. Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn nhiệm vụ và quyền hạn của người Đảng viên như sau:

1. Về nhiệm vụ của Đảng viên:

Nhiệm vụ Đảng viên được quy định trong điều 2, điều lệ Đảng, gồm 4 điểm sau:

” 1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của nhà nước; hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.

2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.

3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước.

4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển Đảng viên; sinh hoạt Đảng và đóng Đảng phí đúng quy định”.

Thực hiện các nhiệm vụ trên, mỗi Đảng viên cần nắm vững nội dung cơ bản sau:

Một là, kiên định với những vấn đề về quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng:

– Hai là, mỗi Đảng viên phải hiểu rõ cơ hội lớn để đất nước phát triển nhanh, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại để vận dụng vào nhiệm vụ của mình. Đồng thời, phải nhận thức sâu sắc thách thức lớn, các nguy cơ đang đe doạ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta để tự giác góp phần đẩy lùi, từng bước khắc phục. Mỗi Đảng viên phải ra sức rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, nêu gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong cơ quan của Đảng, nhà nước và các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội; cảnh giác và kiên quyết chống mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, trước hết là trong phạm vi chức trách, nhiệm vụ cụ thể của mỗi người.

– Ba là, đất nước ta đã chuyển sang thời kì phát triển mới với nhiệm vụ trung tâm là xây dựng phát triển kinh tế, đòi hỏi Đảng viên phải nâng cao trình độ kiến thức và năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, thực hiện vai trò tiên phong, gương mẫu. Vì vậy, nhiệm vụ học tập càng trở nên đặc biệt quan trọng. Học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi Đảng viên. Có nhiều hình thức và phương pháp học tập để nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà tổ chức Đảng và mỗi Đảng viên phải có kế hoạch, chế độ học tập phù hợp.

– Bốn là, có mối quan hệ mật thiết với quần chúng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhân dân lao động cần có Đảng với tư cách là người lãnh đạo, lãnh tụ chính trị bảo đảm cho cuộc đấu tranh của nhân dân giành thắng lợi và ngược lại, Đảng cần được nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng dễ quan liêu, xa rời nhân dân. Đây là một nguy cơ lớn đối với sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa. Mọi Đảng viên phải thường xuyên liên hệ mật thiết với quần chúng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân phản ánh với Đảng, đồng thời tích cực tham gia tuyên truyền vận động nhân dân và gia đình mình thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước.

– Năm là, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng và nhà nước, chống lại sự phá hoại của kẻ thù. Thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh. Tích cực làm công tác phát triển Đảng viên mới.

2. Về quyền của Đảng viên:

Điều 3, Điều lệ Đảng quy định Đảng viên có những quyền sau: – Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng. – Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của ban chấp hành trung ương. – Trình bày ý kiến khi tổ chức Đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đôi với mình. – Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng. Các quyền của Đảng viên nêu trong điều lệ Đảng nhằm bảo đảm cho Đảng viên thực hiện đầy đủ quyền làm chủ về mặt chính trị tổ chức và sinh hoạt Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý”.

Những quy định về quyền của Đảng viên tạo điều kiện cho Đảng viên và tổ chức Đảng thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong quá trình phấn đấu để trở thành Đảng viên, vấn đề xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn lại được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định vì: Đảng là một tổ chức chính trị, đây là một tổ chức luôn luôn vận động và phát triển nên rất cần những người ưu tú để cho Đảng hoạt động và phát triển bình thường để đáp ứng nhu cầu cách mạng trong từng thời kỳ. Trong quá tình vận động và phát triển luôn xuất hiện những phần tử thoái hóa biến chất, cần phải khai trừ ra khỏi Đảng. Việc khai trừ và kết nạp Đảng viên mới để bổ xung cho Đảng những con người có phẩm chất năng lực nâng cao bản lĩnh chính trị để phục vụ cho Đảng giúp Đảng ta lãnh đạo đất nước trong thời kỳ mới hiện nay.

Chính vì vậy mà trong quá trình phấn đấu để trở thành Đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam thì mỗi người chúng ta phải xác định được động cơ vào Đảng đúng đắn, tuyệt đối trung thành với điều lệ và cương lĩnh của Đảng. Có xác định được như vậy thì người Đảng viên mới tận tâm tận lực phục vụ Đảng, vào Đảng là để chấp nhận gian khổ hi sinh, chấp nhận sự phân công và điều động của Đảng, hết lòng phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, đất nước lên trên lợi ích cá nhân, phấn đấu vì lý tưởng cách mạng cao cả, xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa giàu đẹp và văn minh. Bác Hồ kính yêu đã dạy chúng ta: “Đảng viên là người đầy tớ của nhân dân.” Vào Đảng là để phục vụ nhân dân, phục vụ dân tộc, nếu vào Đảng mà chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân thì đừng vào. Những người mà ngay từ khi phấn đấu vào Đảng đã có động cơ không trong sáng thì khi đã đứng trong hàng ngũ của Đảng chắc chắn sẽ “quay lưng” phản bội lại Đảng khi có cơ hội. Điều đó là hết sức nguy hiểm cho sự trong sạch, vững mạnh của Đảng.

Thực tế đã có những Đảng viên đã được thử thách qua chiến đấu rất dũng cảm, rất anh hùng, nhưng trong điều kiện hòa bình, trước sự cám dỗ của tiền tài, vật chất đã gục ngã, đã bị biến chất, thoái hóa. Cũng có những Đảng viên sau khi vào Đảng một thời gian dài, nắm trong tay chức quyền thì bắt đầu mới bộc lộ bản chất cơ hội, bản chất của một con người mang danh Đảng viên để tiến thân. Những con người đó trước sau gì cũng làm tổn hại đến thanh danh, uy tín của Đảng, làm hại đến lợi ích của nhân dân, của dân tộc và nguy hiểm hơn nữa là đến một lúc nào đó, họ sẽ phản bội lại lý tưởng cách mạng của Đảng. “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, những việc khó khăn, gian khổ, Đảng viên phải gương mẫu đi đầu, lo trước nỗi lo thiên hạ, vui sau cái vui thiên hạ. Tất nhiên, đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ Đảng viên thì cũng có cả quyền lợi. Nhưng vượt lên trên tất cả cái gọi là quyền lợi ấy phải là đạo đức cách mạng, là phẩm chất của người Đảng viên tận tụy vì dân. Nếu Đảng viên mà đặt lợi ích cá nhân, gia đình mình lên trên hết thì người Đảng viên đó không được lòng tin của nhân dân. Mất lòng tin của dân và xa dời quần chúng nhân dân thì mọi việc đều thất bại. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Chính vì vậy, việc xác định động cơ vào Đảng ở mỗi người là cực kỳ quan trọng. Nếu ngay từ đầu, động cơ vào Đảng không đúng đắn, lệch lạc và vụ lợi thì không những không làm cho Đảng vững mạnh mà ngược lại mặc dù Đảng sẽ nhiều Đảng viên, nhưng không có đoàn kết, không hình thành một khối vững chắc, thậm chí còn tiềm ẩn nguy cơ suy yếu, chia rẽ. Động cơ và mục đích của quần chúng khi vào Đảng là điều hết sức quan trọng, nhưng đó cũng là điều khó nắm bắt nhất, bởi nó nằm sâu trong nội tâm mỗi người. Vì vậy, trong công tác xây dựng Đảng, chúng ta cần tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng một cách có hệ thống cho các quần chúng ưu tú và cho các Đảng viên mới để mỗi người Đảng viên và quần chúng tự ý thức, tự trau dồi, tự rèn luyện bản lĩnh chính trị và tự phấn đấu vươn lên. Vì sự vững mạnh của Đảng, vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc, quần chúng cũng như cán bộ, quần chúng ưu tú và người Đảng viên cần thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Bác Hồ về đạo đức cách mạng: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”.

Trong quá trình phấn đấu vào Đảng, việc xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn là điều có ý nghĩa quyết định. Đảng chỉ kết nạp những người thực sự giác ngộ về mục đích, lý tưởng cách mạng, quyết không thu nạp vào hàng ngũ mình những người mang động cơ thiếu trong sang, lệch lạc; càng không để cho các phần tử có cơ hội lọt vào Đảng. Để có động cơ vào Đảng đúng đắn cần hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng, tích cực góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra; thường xuyên trau đồi đạo đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vụ lợi, xa lạ với bản chất của người chiến sĩ cách mạng. Xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn hiện nay có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Trong điều kiện hòa bình, Đảng ta cầm quyền và cơ chế kinh tế thị trường, mỗi người chúng ta nói chung, người Đảng viên nói riêng, luôn phải đối mặt với biết bao khó khăn, thử thách và những cám dỗ của quyền lực, tiền tài. Nếu người vào Đảng không có đủ nghị lực và bản lĩnh, sẽ không vượt qua được những thử thách, không thắng nổi cám dỗ vật chất thì Đảng sẽ xa dời tư tưởng cộng sản nền tảng, không vượt qua được những thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Động cơ và mục đích vào Đảng đúng đắn không phải là cái cụ thể, không phải là thứ mà chúng ta đem cân đong đo đếm được, mà nó đã tồn tại trong những người đoàn viên ưu tú, những quần chúng tiến bộ và được bồi đắp thêm ngay trong quá trình học tập, rèn luyện và phấn đấu vào Đảng của mỗi quần chúng ưu tú và người Đảng viên Sau khi đã xây dựng cho mình được động cơ đúng đắn người Đảng viên phải thường xuyên tự rèn luyện và nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng. Bản lĩnh chính trị thể hiện ở nhận thức đúng đắn và kiên định mục tiêu, lý tưởng và con đường xã hội chủ nghĩa mà Bác Hồ đã lựa chọn; trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào cũng không giao động, giảm sút niềm tin và ý trí chiến đấu. Đồng thời bản lĩnh đó còn thể hiện ở tinh thần độc lập, sáng tạo, không thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ. Trong điều kiện hiện nay, khi cách mạng thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, cần đặc biệt nhấn mạnh đến sự kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, với lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc. Để có bản lĩnh chính trị vững vàng, người phấn đấu vào Đảng cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, giữ vững niềm tin.

Trước khó khăn thử thách không nao núng tinh thần, không mất phương hướng chính trị và có thái độ, chính kiến rõ ràng, kiên định. Bản lĩnh chính trị được hình thành chủ yếu bằng nỗ lực của bản thân trong quá trình học tập, nắm vững lý luận Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng. Tích cực học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, tích lũy kiến thức và kinh nghiệm, làm giàu vốn hiểu biết của chính mình. Bản lĩnh chính trị còn được rèn luyện qua các hoạt động thực tiễn, muốn trở thành Đảng viên của Đảng cộng sản cần thường xuyên tự rèn luyện mình qua thực tế sản xuất, công tác, hoạt động chính trị – xã hội, chỉ có sự hiểu biết sâu rộng, trải nghiệm qua trường học đấu tranh thực tiễn, chúng ta mới trở nên vững vàng và kiên định.

Cùng với rèn luyện bản lĩnh chính trị, cần thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng. Có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Đạo đức cách mạng có nội dung hết sức phong phú, nhưng như lời bác Hồ dạy: “Nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”. Trong Đảng ta, có biết bao nhiêu đồng chí đã vì dân, vì Đảng mà hy sinh oanh liệt, đã nêu gương chói lọi về đạo đức cách mạng. Ngày nay, đại bộ phận Đảng viên vẫn giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, được nhân dân quý mến, tin cậy. Đạo đức cách mạng là kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện suốt đời, không ngừng nghỉ, như Bác Hồ đã dạy: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.

Ngày nay đạo đức cách mạng còn là ý trí, quyết tâm và góp sức đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh, nhân dân làm chủ xã hội và có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Không thể có đạo đức cách mạng nếu làm gì cũng tính thiệt hơn với Đảng, lúc nào cũng đòi hỏi hưởng thụ, muốn lựa chọn theo ý thích và lợi ích cá nhân, sống cơ hội thực dụng, coi đồng tiền là tất cả, lợi dụng cơ chế, chính sách để tham nhũng, lãng phí làm giàu phi pháp…. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là phủ định vai trò, lợi ích cá nhân, lợi ích cá nhân được tôn trọng khi nó không trái với lợi ích chung của cộng đồng. Đường lối của Đảng là kết hợp hài hòa ba lợi ích: lợi ích toàn xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Đảng luôn tôn trọng và quan tâm đến lợi ích cá nhân, đồng thời kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, đặt lợi ích cá nhân mình lên trên, lên trước lợi ích tập thể và toàn xã hội. Nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao Đảng viên phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Phấn đấu trở thành người sản xuất, công tác, chiến đấu và học tập giỏi. Để xứng đáng với vai trò tiên phong, gương mẫu “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau” như chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.

Để trở thành Đảng viên, người đang phấn đấu vào Đảng cần hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác của mình và nhiệm vụ của tổ chức Đảng, đoàn thể giao cho, bảo đảm đạt chất lượng, hiệu quả cao. Đó là điều kiện chủ yếu để quần chúng tin cậy giới thiệu và tổ chức Đảng xem xét kết nạp vào Đảng. Trong điều kiện hiện nay, ngoài nhiệt tình cách mạng cần đặc biệt coi trọng nâng cao năng lực trí tuệ và năng lực thực tiễn; không ngừng học tập, thường xuyên tiếp nhận những hiểu biết mới để đủ kiến thức đáp ứng các yêu cầu do thực tiễn đề ra. Phải coi trọng việc học tập chính trị cùng với chuyên môn, nghiệp vụ. Đảng không thể kết nạp những người lười học tập, hoặc học lấy lệ, chỉ cốt lấy bằng cấp, không thể hiện được tính tiên phong gương mẫu. Để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao thì người Đảng viên phải thảo mãn được hai điều kiện đó là; Nhiệt tình cách mạng, có năng lực trí tuệ và thực tiễn nó được tạo nên bởi trình độ trí tuệ của người Đảng viên. Hai điều kiện này có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau trong quá trình xây dựng động cơ cho mình. Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội Một trong những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự gắn bó mật thiết, máu thịt với nhân dân. Đảng viên phải giữ vững và phát huy truyền thống đó, trước hết thể hiện sự gắn bó với quần chúng ở nơi làm việc và nơi cư trú của mình. Phải hòa mình với quần chúng, tin tưởng, am hiểu và lắng nghe ý kiến của quần chúng. Thường xuyên chăm lo đời sống, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng và chinh sách, pháp luật của nhà nước.

Muốn trở thành Đảng viên, người phấn đấu vào Đảng phải gắn bó với tập thể, với nhân dân, với đồng nghiệp, bạn bè trong đơn vị công tác, với bà con làng xóm, khối phố; tôn trọng, chia sẻ, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Hòa mình với quần chúng nhưng không bị động theo những suy nghĩ và việc làm tiêu cực, sai trái, mà luôn luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, vận động mọi người đoàn kết, thực hiện thắng lợi mục tiêu nhiệm vụ do Đảng đề ra. Người phấn đấu vào Đảng phải nhiệt tình tham gia sinh hoạt đoàn thể mà bản thân là thành viên, góp phần phát huy vai trò của đoàn thể trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Qua hoạt động đoàn thể người phấn đấu vào Đảng thể hiện rõ vai trò, khả năng lãnh đạo, tập hợp quần chúng, phát huy tính tiên phong gương mẫu – những phẩm chất cần thiết để trở thành Đảng viên của Đảng. Ở nơi có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người trong độ tuổi Thanh niên muốn vào Đảng nhất thiết phải là Đoàn viên ưu tú. Người muốn vào Đảng càng phải chú trọng mở rộng quan hệ xã hội và tích cực tham gia công tác xã hội, gương mẫu vận động gia đình, người thân tham gia các phong trào, các hoạt động đoàn thể, các hoạt động nhân đạo, từ thiện, phát huy truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc; chống tệ nạn xã hội, quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Tích cực tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở Để được đứng trong hàng ngũ của Đảng, người phấn đấu vào Đảng phải tích cực tham gia xây dựng Đảng. Nhân dân ta gắn bó với Đảng và luôn tham gia đóng góp cho Đảng. Vì vậy, tham gia xây dựng tổ chức Đảng ở cơ sỏ trong sạch, vững mạnh là trách nhiệm của người phấn đấu vào Đảng.

3. Nội dung tham gia xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của người phấn đấu vào Đảng.

Bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tế của mình quan tâm đóng góp ý kiến với chi bộ, Đảng bộ trong việc lãnh đạo cơ quan, đơn vị chấp hành tốt đường lối của Đảng, pháp luật chính sách của nhà nước phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất, cải thiện đời sống cho nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở còn bao gồm các nội dung sau:

+ Tích cực hưởng ứng các phong trào, các hoạt động triển khai thực hiện chủ trương, nhiệm vụ do Đảng bộ, chi bộ đề ra với tinh thần chủ động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu cao nhất. Góp phần tích cực đưa những chủ trương, nhiệm vụ đó vào cuộc sống, tạo ra bước phát triển mới của cơ sở, đơn vị, nhất là về phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống của người lao động, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực.

+ Chủ động nắm bắt tình hình thực tế, nắm bắt tình hình của quần chúng nhân dân, kết quả thực hiện chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng, kịp thời phản ánh, đề xuất với tổ chức Đảng.

+ Tích cực và mạnh dạn tham gia góp ý kiến đối với sự lãnh đạo của tổ chức Đảng và đội ngũ Đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên.

+ Tham gia ý kiến khi được hỏi về việc giới thiệu những Đảng viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để tổ chức Đảng xem xét, bầu vào cấp ủy, giới thiệu những quần chúng ưu tú có đủ điều kiện để tổ chức Đảng xét kết nạp.

+ Tham gia góp ý kiến đối với hoạt động của chính quyền và đoàn thể, góp phần xây dựng cơ sở chính trong sạch, vững mạnh.

+ Tích cực và kiên quyết đấu tranh bảo vệ Đảng, giữ vững ổn định chính trị – xã hội ở cơ sở, đơn vị. Góp phần làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn phá hoại của các phần tử xấu, các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ để xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng.

Câu 2: Động cơ phấn đấu của đồng chí vào Đảng Cộng sản Việt Nam (nội dung và ý nghĩa của việc học tập và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong quá trình phấn đấu của đồng chí để trở thành Đảng viên).

Nội dung và ý nghĩa của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả tình cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi cán bộ, Đảng viên và mỗi người dân Việt Nam. Đối với mỗi cán bộ, Đảng viên, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ rất quan trọng và thường xuyên, qua đó để giáo dục, rèn luyện mình, xứng đáng là Đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, là “người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

– Một là, thực hiện chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh “Trung với nước, hiếu với dân” mỗi cán bộ Đảng viên phải trung thành vô hạn với mục tiêu lý tưởng của Đảng, của dân tộc, cần quán triệt những nội dung của chủ nghĩa yêu nước trong giai đoạn mới; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh Tư tưởng và phẩm chất đạo đức tiêu biểu của Hồ Chí Minh là tinh thần yêu nước nồng nàn, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, toàn tâm, toàn ý cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một mong muốn, mong muốn tột bậc là đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hưởng tự do. Từ quyết tâm “ dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được tự do, độc lập”, để rồi phấn đấu cho “đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, để nước ta “ sánh vai với cường quốc năm châu”.

Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta cần: Mỗi người cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to lớn của ông cha để chúng ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do, thống nhất trọn vẹn hôm nay. Nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm của mỗi người Việt Nam chân chính. Trung với nước ngày nay là trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hóa, bảo vệ Đảng, chế độ, nhân dân và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước.

Trung với nước, hiếu với dân ngày nay là luôn luôn tôn trọng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân dưới cả ba hình thức: làm chủ đại diện, làm chủ trực tiếp và tự quản cộng đồng; hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết kịp thời những yêu cầu, kiến nghị hợp tình, hợp lý của dân; khắc phục cho được thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước những khó khăn, bức xúc… của nhân dân. Trung với nước, hiếu với dân ngày nay thể hiện ở ý chí vươn lên quyết tâm vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, góp phần dựng xây đất nước phồn vinh, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, theo kịp trình độ các nước phát triển trong khu vực và thế giới; thực hiện bằng được mong ước của Bác Hồ kính yêu: “xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Trung với nước, hiếu với dân là phải luôn luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan, đơn vị; kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ của các thế lực thù địch, cơ hội hòng chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân. Đoàn kết là yêu nước, chia rẽ là làm hại cho đất nước. Mọi biểu hiện cục bộ, bản vị là trái với tinh thần yêu nước chân chính. Trung với nước hiếu với dân là phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; quyết tâm phấn đấu để thành đạt và cống hiến nhiều nhất cho đất nước, cho dân tộc; quyết tâm xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh. Phải có tinh thần ham học hỏi, phát huy truyền thống hiếu học và quý trọng nhân tài của ông cha ta; biết vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học, công nghệ hiện đại, các sáng kiến trong sản xuất, công tác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Mọi sự bảo thủ, trì trệ, lười học tập, ngại lao động, đòi hỏi hưởng thụ vượt quá khả năng và kết quả cống hiến là trái truyền thống đạo lý dân tộc và trái với tư tưởng yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trung với nước, hiếu với dân yêu cầu mỗi chúng ta phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân – gia đình – tập thể – xã hội; quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu nước là sẵn sàng phấn đấu hy sinh cho lợi ích chung, việc gì có lợi cho dân, cho nước, cho tập thể thì quyết chí làm, việc gì có hại thì quyết không làm. Làm việc gì trước hết phải vì tập thể, vì đất nước, vì nhân dân, phải nêu cao trách nhiệm của người lãnh đạo, không tham lam, vụ lợi, vun vén cá nhân.

– Hai là, thực hiện đúng lời dạy: “Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư ” nêu cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là chuẩn mực đạo đức truyền thống trong quan hệ “đối với mình”, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, vận dụng và phát triển phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, trở thành chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng. Người là một tấm gương mẫu mực về “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.

Học tập và làm theo tấm gương của Người, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong giai đoạn hiện nay là: Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; biết quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức; biết sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà nước, của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả. Thực hiện chí công, vô tư là kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng.

Đối với cán bộ lãnh đạo, Đảng viên phải loại bỏ thói chạy theo danh vọng, địa vị, giành giật lợi ích cho mình, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt của công, thu vén cho gia đình, cá nhân…, cục bộ, địa phương chủ nghĩa. Phải thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; chân thành, khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, không bao che, giấu giếm khuyết điểm… Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư phải kiên quyết chống bệnh lười biếng, lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, miệng nói lời cao đạo nhưng tư tưởng, tình cảm và việc làm thì mang nặng đầu óc cá nhân, tư lợi, việc gì có lợi cho mình thì “hăng hái”, tranh thủ kiếm lợi, việc gì không “kiếm chác” được cho riêng mình thì thờ ơ, lãnh đạm. Không làm dối, làm ẩu, bòn rút của công, ăn bớt vật tư, tiền của của Nhà nước và của nhân dân. Phải có thái độ rõ rệt lên án và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội.

– Ba là, nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao dân chủ và kỷ luật và chính Người là một mẫu mực về tinh thần dân chủ, tôn trọng tập thể, tôn trọng quần chúng nhân dân, luôn luôn quan tâm đến mọi người, gắn bó với nhân dân. Người luôn luôn phê phán “óc lãnh tụ”, phê phán thói “quan cách mạng”, phê phán những biểu hiện quan liêu, coi thường quần chúng, coi thường tập thể, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là những căn bệnh khác nhau của chủ nghĩa cá nhân.

Học tập và làm theo Người, mỗi cán bộ, Đảng viên phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương. Mọi biểu hiện dân chủ hình thức, lợi dụng dân chủ để “kéo bè, kéo cánh”, để làm rối loạn kỷ cương, để cầu danh, trục lợi hoặc chuyên quyền, độc đoán, đứng trên tập thể, đứng trên quần chúng…, làm cho nhân dân bất bình, cần phải lên án và loại bỏ. Học tập đạo đức Hồ Chí Minh tất cả vì nhân dân, mỗi cán bộ, Đảng viên, dù ở bất cứ cương vị nào phải gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân. Phải trăn trở và thấy trách nhiệm của mình khi dân còn nghèo đói. Không chỉ sẻ chia và đồng cam, cộng khổ với nhân dân, mà còn phải biết tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của dân, tổ chức, động viên, lãnh đạo nhân dân phấn đấu thoát khỏi đói nghèo. Nhân dân là người thầy nghiêm khắc và nhân ái, luôn luôn đòi hỏi cao ở cán bộ, Đảng viên, đồng thời cũng sẵn lòng giúp đỡ cán bộ, Đảng viên hoàn thành nhiệm vụ, phát huy ưu điểm, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm. Học tập đạo đức Hồ Chí Minh phải rất coi trọng tự phê bình và phê bình.

Người dạy cán bộ, Đảng viên và mọi người chúng ta: không sợ khuyết điểm, không sợ phê bình, mà chỉ sợ không nhận ra khuyết điểm, sai lầm và không có quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, sẽ dẫn đến khuyết điểm ngày càng to và hư hỏng. Tự phê bình phải được coi trọng, được đặt lên hàng đầu, theo tư tưởng Hồ Chí Minh “phải nghiêm khắc với chính mình”. Phê bình phải có mục đích là xây dựng tổ chức, xây dựng con người, xây dựng đời sống tình cảm và quan hệ đồng chí, quan hệ xã hội lành mạnh, trong sáng, có lý, có tình. Phải khắc phục bệnh chuộng hình thức, thích nghe lời khen, (thậm chí xu nịnh), tâng bốc nhau, không dám nói thẳng, nói thật để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đồng thời, cần phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân, vụ lợi mà “đấu đá”, nhân danh phê bình để đả kích, lôi kéo, chia rẽ, làm rối nội bộ.

– Bốn là, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trong điều kiện toàn cầu hóa, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế Tư tưởng Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế bắt nguồn từ tình yêu thương đối với con người, với nhân loại và đoàn kết toàn nhân loại vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Người là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Nhờ đó mà nhân dân thế giới kính yêu Người, trao tặng Người danh hiệu nhà văn hóa kiệt xuất trên thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Từ chủ nghĩa quốc tế cao cả, Người đã xây dựng nên tình đoàn kết quốc tế rộng lớn của dân tộc ta với các dân tộc trên thế giới, góp phần quan trọng vào những thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta và phong trào cách mạng thế giới.

Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hóa, việc mở rộng tình đoàn kết quốc tế, hợp tác cùng có lợi, chủ động, tích cực hội nhập là một nguồn lực quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước. Đoàn kết quốc tế trong sáng là thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy với các quốc gia trên thế giới, phấn đấu vì độc lập, hòa bình, hợp tác và phát triển. Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở rộng hợp tác cùng có lợi, phấn đấu vì hòa bình, phát triển, chống chiến tranh, đói nghèo, bất công, cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế. Khép lại những vấn đề của quá khứ, lịch sử, xoá bỏ mặc cảm, hận thù, nhìn về tương lai, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc.

Học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, kiên quyết đấu tranh chống tâm lý tự ty, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi; phê phán các biểu hiện vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa tư bản. Sự nghiệp đổi mới đất nước đã và đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với sự hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam, đồng thời tạo ra những thuận lợi và những thử thách mới đối với mỗi chúng ta trong lĩnh vực đạo đức.

Hơn lúc nào hết, hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta phải quan tâm đầy đủ đến vấn đề đạo đức, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức đúng đắn, tiến bộ; đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện và tăng cường quản lý đạo đức trong Đảng và trong nhân dân. Kế thừa truyền thống đạo đức tốt đẹp của ông cha, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những biện pháp quan trọng để khắc phục sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, Đảng viên và nhân dân, làm lành mạnh nền đạo đức xã hội, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, xã hội, tạo động lực cho sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững. Vấn đề cơ bản nhất khi thực hiện cuộc vận động là mỗi người chúng ta phải nhận thức đầy đủ vị trí của vấn đề đạo đức, thường xuyên tự giác, nỗ lực học tập, rèn luyện, tu dưỡng theo gương Bác Hồ vĩ đại. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và nhân loại. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt mục đích cách mạng. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm lòng của một con người nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. Đã bao nhiêu năm nay, trong tâm khảm người Việt Nam, Bác Hồ vĩ đại và gần gũi. Mỗi người cán bộ, Đảng viên, Đoàn viên thanh niên chúng ta đã lấy tấm gương của Bác để soi, để rèn mình, để cống hiến cho đất nước và xây dựng cơ quan, đơn vị mình ngày càng tốt hơn.

KẾT LUẬN

Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế sâu hơn, rộng hơn, chúng ta tiếp thu nền văn minh tiên tiến, nền khoa học công nghệ hiện đại của nhân loại thì việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh càng trở nên hết sức quan trọng. Thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và bản thân tôi nói riêng, thấy rất tự hào khi phấn đấu để được đứng vào hàng ngũ của Đảng và thấy rõ đó là một trọng trách, một nhiệm vụ cao cả và cũng đầy vinh quang xong cũng đầy thử thách, Với lòng quyết tâm và bầu nhiệt huyết của mình và mong muốn được đứng vào hàng ngũ của Đảng để đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng đất nước. Chính vì vậy trong quá trình phấn đấu để trở thành Đảng viên tôi đã đề ra cho mình phương hướng rèn luyện, luôn luôn phấn đấu vươn lên về mọi mặt. Tôi tin rằng trong tương lai không xa tôi sẽ vinh dự trở thành một Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, trở thành người chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam.

5. Bài thu hoạch cảm tình Đảng cho giáo viên

Câu 1:

Đồng chí hãy trình bày 5 bài học lớn của cách mạng Việt nam được nêu trong Cương lĩnh năm 1991. Phân tích bài học mà đồng chí thấy tâm đắc nhất. Ý nghĩa của bài học này đối với công việc của đồng chí ?

Câu 2 :

Bản chất giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện ở những điểm chủ yếu nào trong Điều lệ Đảng?

Câu 3 :

Đồng chí hãy phân tích sự cần thiết của việc học tập và làm theo tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Liên Hệ việc thực hiện cuộc vận động ở cơ quan, đơn vị đồng chí?

Câu 1 :

Trải dài theo dòng lịch sử của nước nhà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy một điều rằng cách mạng Việt Nam đã đi hết từ thắng lợi này cho tới thắng lợi khác, dưới sư lãnh đạo của Đảng, có cương lĩnh, có đường lối soi sáng chỉ đường, tạo ra những trận đánh lịch sử lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, tạo ra cuộc sống bình yên, ấm no và hạnh phúc cho toàn thể dân tộc ta và được trường tồn tới ngày nay và mãi mãi

Nước đã đang bước vào giai đoạn hồi nhập nhập toàn cầu, cuộc sống ngày càng phát triển mạnh mẽ, quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày càng lên cao, trước những xu thế mới đỏi hỏi Đảng ta phải có được cương lĩnh rõ ràng để chỉ lối cho những bến bờ hành phúc cho nhân dân, cho nhân loại, và cương lĩnh năm 1991 đã cho chúng ta thấy rõ được những yêu cầu mang tính cần thiết mà chúng ta phải thực hiện được để tô thêm những trang sử vàng cho sự thành công trong con đường hội nhập của đất nước.

Vậy 5 bài học lớn của cách mạng Việt Nam được nêu trong cương lĩnh 1991 được thể hiện như thế nào? chúng ta cũng nhau đi tìm hiểu:

Tổng kết thực tiễn hơn 60 năm của nước ta, trong đó có 5 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, từ những kinh nghiệm thành công và cả những kinh nghiệm chưa thành công, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã nêu ra được 5 bài học lớn của cách mạng Việt Nam:

Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đây là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Hai vấn đề này có quan hệ hữu cơ với nhau. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra sức mạnh to lớn của dân tộc trong đấu tranh cách mạng, giành thắng lợi.

Hai là, Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để phát huy, nhân lên sức mạnh vĩ đại của nhân dân, sự lãnh đạo và toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân, đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân.

Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lịch sử lớn, lâu dài của dân tộc ta đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thành công, tạo nên nguồn sức mạnh to lớn để giành thắng lợi.

Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Sức mạnh dân tộc, sức mạnh trong nước là sức mạnh tổng hợp của nhiều nguồn lực. Sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc tế trước hết là sức mạnh của quy luật và xu thế phát triển không thể đảo ngược của lịch sử nhân loại.

Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Để làm được điều đó, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, đủ sức giải quyết các vấn đề do cuộc sống đặt ra.

Thực chất thì bản thân tôi hoàn toàn tâm đắc tất cả các bài học ở trên, trong tôi qua mỗi bài học tự rút ra được cho mình những bài học quý báu, những kiến thức cẩn và đủ để có thể trở thành một đàng viên tốt, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, và đóng góp vào sự phát triển chung của Đảng, Nhà nước.

Từ cái nhìn khách quan và cụ thể nhất tôi cũng đưa ra được cho mình Bài học tâm đắc nhất đó là ở bài học lớn thứ hai :

“Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”

Có thể khẳng định một điều rằng: Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để phát huy, nhân lên sức mạnh vĩ đại của nhân dân, sự lãnh đạo và toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân, đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân

Tám mươi mốt năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, dân tộc ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, lập nên những kỳ tích vĩ đại trong cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng, phát triển đất nước, định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đưa nhân dân thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than, giành độc lập cho đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám 1945, giải phóng miền Bắc, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp trên đất nước ta, đưa cách mạng nước ta bước sang giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục tiến hành cách mạng giải phóng ở miền Nam.

Trải qua 21 năm chiến đấu, nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài hơn một thế kỉ của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta, hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, non sông thu về một mối. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi vĩ đại nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, đánh dấu bước ngoặt quyết định cho dân tộc Việt Nam tiến vào kỉ nguyên mới- kỉ nguyên độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội.

Sau 30 năm chiến tranh giải phóng, cả nước bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một cuộc chiến đấu “khổng lồ” để loại bỏ những gì cũ kỹ lạc hậu, tạo ra những giá trị “mới mẻ, tốt tươi” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh.

Trong buổi đầu cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ đổi mới, dân tộc ta phải đối diện với bao thách thức, khó khăn gay gắt cả trong nước và quốc tế. Đặc biệt vào thập kỉ 90 của thế kỉ XX, trong bối cảnh quốc tế hết sức phức tạp và tình hình đất nước gặp muôn vàn khó khăn, các thế lực thù địch không ngừng chống phá, nhưng với bản lĩnh kiên cường của một chính đảng cách mạng và khoa học, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định mục tiêu mà Đảng, nhân dân đã lựa chọn, giữ vững vai trò lãnh đạo, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua sóng gió, tiếp tục tiến lên, tiến hành công cuộc đổi mới đạt nhiều thành tựu quan trọng. Đảng đã đề ra và từng bước bổ sung, hoàn thiện đường lối cách mạng một cách đúng đắn, sáng tạo, bước đầu hình thành một hệ thống các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tế nước ta, kế thừa và phát huy giá trị văn hoá và bản sắc dân tộc. Đây là kết quả của một quá trình trăn trở, tìm tòi, tổng kết, đổi mới tư duy lí luận, nhận thức đúng đắn hơn về thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng ngày càng trưởng thành và có thêm kinh nghiệm lãnh đạo nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong hoàn cảnh mới.

Xuyên suốt chặng đường hoạt động cách mạng 80 năm qua, trong các Cương lĩnh (từ Cương lĩnh đầu tiên năm 1930 đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, năm 1991), hay trong mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đều thể hiện rất rõ, Đảng ta không có mục đích nào khác là đấu tranh cho tự do độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử. “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”.

Sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng cũng như những phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc mà Cương lĩnh 1991 của Đảng xác định đều toát lên vị trí, vai trò của nhân dân; đều nhằm giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, hướng tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, mỗi cá nhân đều có điều kiện phát triển toàn diện; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân

Triển khai đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; quyền dân chủ chính trị của nhân dân được khơi dậy, tôn trọng và ngày càng đề cao. Chính sách xã hội thời kỳ đổi mới hướng vào phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội. Đặc biệt, đã tạo được những thành tựu lớn trong thực hiện chiến lược quốc gia xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm, được thế giới ghi nhận và đánh giá cao. Đồng thời, đã kết hợp tốt các nguồn lực của Nhà nước và nhân dân, xây dựng nhiều công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội cho các vùng, miền. Chính trị- xã hội ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường, quan hệ đối ngoại có những bước phát triển mới, đã tạo thêm môi trường thuận lợi để Đảng và Nhà nước ta lãnh đạo tổ chức thực hiện tốt hơn các chương trình, mục tiêu phát triển đất nước.

Qua gần 25 năm đổi mới, đất nước đã vượt qua thử thách hiểm nghèo, phá thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo tiền đề vững chắc để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Tất cả thực tiễn phong phú, sôi động, hào hùng của dân tộc ta trong 80 năm qua ngày càng khẳng định rõ hơn nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Đảng vừa tròn 30 tuổi:

“Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao

Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.

Đảng ta là đạo đức, là văn minh,

Là thống nhất, độc lập, là hoà bình ấm no”

Đảng ta thật là vĩ đại là bởi vì ”ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc Đảng ta không có lợi ích gì khác”

Đảng ta vĩ đại, trước hết chính vì Đảng tiêu biểu cho sức mạnh trí tuệ của giai cấp công nhân hiện đại, cho tiềm lực tinh thần truyền thống của dân tộc và tiếp thu được những tinh hoa của văn hoá nhân loại. Ngay từ khi thành lập, sức mạnh của Đảng nằm ngay trong ba yếu tố hợp thành của Đảng: chủ nghĩa Mác- Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong, là tổ chức của những chiến sĩ ưu tú nhất của giai cấp công nhân và của toàn thể dân tộc.

Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn đứng vững trên lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lợi ích của nhân dân, của dân tộc, coi đó là điểm xuất phát của mọi đường lối, chủ trương của Đảng. Ngay Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng phản ánh đúng quy luật khách quan, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, đáp ứng đúng yêu cầu của thực tiễn, vạch ra được mục tiêu, phương hướng và giải pháp cơ bản của cách mạng. Từ đó tiến hành tập hợp, tổ chức, động viên toàn thể nhân dân biến đường lối của Đảng thành hành động cách mạng của quần chúng. Tinh thần cơ bản của bản Cương lĩnh ấy được phát triển, cụ thể hoá đáp ứng những nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và từng bước xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Ngay sau khi giành được chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì”. Mục tiêu của Đảng là làm cho mọi người dân ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, được sống ấm no và sung sướng; mang lại quyền làm chủ về kinh tế, xã hội cũng là thước đo trình độ giải phóng xã hội, sự phát triển của xã hội.

Lịch sử tám mươi mốt năm xây dựng và phát triển của Đảng đã chứng tỏ, cội nguồn sức mạnh của Đảng không chỉ thể hiện ở chỗ mọi hoạt động của Đảng đều xuất phát vì lợi ích của nhân dân mà còn thể hiện Đảng luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin tưởng, ủng hộ và che chở. Liên hệ mật thiết với nhân dân đã trở thành một truyền thống tốt đẹp của Đảng và cũng là cội nguồn sức mạnh của Đảng trong 81 năm qua. Chính từ thực tiễn cách mạng, Đảng đã nhận thức sâu sắc: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng đã tổ chức và phát huy được lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân”

Là một Đảng cách mạng vì nhân dân, trước hết, đường lối chính trị của Đảng phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân. Lãnh tụ Hồ Chí Minh coi việc hoạch định đường lối chính sách của Đảng không chỉ là công việc của bản thân Đảng mà còn phải biết phát huy trí tuệ của toàn dân vào việc xây dựng đường lối của Đảng: “Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết”. “Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta. Đảng không chỉ có đường lối chính trị xuất phát từ lợi ích chính đáng của quảng đại đa số nhân dân, mà còn thể hiện ở trong tổ chức của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn đặt lợi ích của nhân dân, của dân tộc lên trên hết, đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa làm nên sức mạnh đoàn kết rất đáng tự hào của Đảng ta, đã tạo nên uy tín lãnh đạo của Đảng đối với toàn dân tộc; làm cho Đảng được dân tin, dân phục, dân yêu mến, dân giúp đỡ, ủng hộ và bảo vệ.

Sức mạnh và uy tín của Đảng không chỉ ở đường lối chính trị với mục vì dân mà còn thể hiện ở đức hy sinh, sẵn sàng xả thân vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc của hàng triệu các thế hệ đảng viên trong sự nghiệp cách mạng, đặc biệt trong đấu tranh giành chính quyền cách mạng và trong đấu tranh giải phóng dân tộc.

Nhìn lại chặng đường đấu tranh đầy khó khăn, thử thách nhưng vô cùng oanh liệt của Đảng ta trong tám thập kỉ qua, chúng ta càng thấm thía bài học “lấy dân làm gốc”, trân trọng quá khứ, nâng niu giữ gìn những thành quả cách mạng của cách mạng, càng thấm thía và biết ơn vô hạn công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các thế hệ đảng viên đó xả thân vì nền độc lập, thống nhất của đất nước, càng thêm tự hào về Đảng ta, nhân dân và dân tộc ta.

Khi tổng kết những kinh nghiệm quý sau 20 năm đổi mới, một trong những bài học quan trọng hàng đầu được Đại hội X của Đảng đúc kết là bài học “lấy dân làm gốc”: “Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển, đó là chìa khóa của thành công”

Ý nghĩa đối với bản thân :

Là một sinh viên đang còn ngồi trên ghế nhà trường bản thân tôi cũng tự nhận thấy những kiến thức về Đường lối cách mạng Đảng, Tư tưởng Hồ Chí Minh hay chủ nghĩa Mac –Lenin, là cái cốt lõi đưa cho tôi tới được với những quan điểm logic những ý nghĩa vô cũng to lớn về cách mạng, về sự nghiệp cách mạng của dân tộc và tôi biết sự nghiệp cách mạng là của dân tộc, là của nhân dân và vì nhân dân

Tôi đã từng nghe:

“Dân biết , dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”

“Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”

Những câu nói bất hủ ấy mà làm tôi luôn hướng về nhân dân, tôi cũng có một suy nghĩ, một ham muốn là làm sao sau này mình sẽ có một phần đóng góp cho sự phát triển chung xã hội,cho sự nâng cao dân trí của người dân

Chuyên ngành tôi nghiên cứu là Giáo Dục Học và tôi ưa thích nó, tôi cũng có ý tưởng là tôi sẽ áp dụng nó vào quá trình làm việc của mình sau này đặc biệt là tham gia vào việc giáo dục những lý tưởng sống, những nhiệm vụ học tập cần thiết, những yêu cầu từ thực tiễn, chống lại những sự cổ hủ lạc hậu. Sẽ tới từng nhà, rà từng đối tượng, bản thân giáo dục là quốc sách hàng đầu là việc quan trọng bậc nhất để đưa sự phát triển của đất nước đi lên, dân trí có tăng lên thì đới sống, cũng như suy nghĩ của nhân dân mới tích cực

Bản thân tôi cũng đang phấn đấu học tốt, để đem tri thức của bản thân để phục vụ toàn dân, vì lợi ích mười năm trồng cây và vì lợi ích trăm năm trồng người,tôi hi vọng trên con đò của tôi trở sẽ được thành công như những tư tưởng lớn của người đem theo hành trang của một Đảng viên trẻ tôi sẽ cố gắng nhiệt huyết đi cùng nhân dân, chia sẻ, tâm sự và thảo luận những nỗi niềm của họ, vì một đất nước phồn vinh và hạnh phúc.

Câu 2:

Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nên công nghiệp hiện đại với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay.

Là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất là chủ yếu (với trình độ trí tuệ ngày càng cao, đồng thời cũng ngày càng có những sáng chế, phát minh lý thuyết được ứng dụng ngay trong sản xuất). Vì thế, giai cấp công nhân có vai trò quyết định nhất sự tồn tại và phát triển xã hội.

Vậy ở trong Điều lệ Đảng bản chất của giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện ở những điểm chủ yếu:

Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định bản chất giai cấp công nhân của mình.

Trong “Chương trình tóm tắt” được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng khẳng định: “Đảng là đội tiên phong lãnh đạo của đội quân vô sản gồm một số lớn giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”.
Sách lược vắn tắt viết: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được quần chúng”.

Đại hội X đã thông qua sự diễn đạt về Đảng là: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”.

Sự diễn đạt như trên thể hiện ở 2 nội dung sau:

+ Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam và đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc.

+ Đảng là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.

– Xuất phát từ nhận thức khoa học về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

+ Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của CNXHKH. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại nhất của Chủ nghĩa Mác – Lênin.

Để hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết cần làm rõ khái niệm giai cấp công nhân.

+ Khái niệm giai cấp công nhân (theo Nghị quyết TW 6 khoá X).

– Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.

+ Là 1 lực lượng to lớn, quan trọng trong xã hội, chưa định hình rõ nét, còn có sự biến đổi, phát triển.

+ Thành phần: bao gồm những người lao động chân tay và trí óc.

+ Đặc điểm: làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.

(Tính đến đầu năm 2007, tổng số công nhân nước ta khoảng 9,5 triệu người, chiếm tỷ lệ 11% dân số và 21% lực lượng lao động xã hội, trong đó số lượng công nhân làm việc trong các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khoảng 6,75 triệu người).

Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:

+ Trước hết phải lãnh đạo tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam, đấu tranh giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính dân chủ nhân dân.

+ Trong giai đoạn cách mạng XHCN, giai cấp công nhân từng bước lãnh đạo nhân dân lao động xây dựng thành công CNXH, không có người bóc lột người, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, bất công.

=> Hai nội dung trên quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình thực hiện. Thể hiện sự nghiệp vĩ đại của giai cấp công nhân là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người và nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.

+ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ ý nghĩa, nội dung căn bản, thể hiện cụ thể của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn mới là: Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
– ở nước ta, giai cấp công nhân tuy số lượng còn ít, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam và chính Đảng của mình luôn đứng trên lập trường cách mạng, giữ vững bản chất giai cấp, lấy Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.

– Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa giai cấp và dân tộc… Thắng lợi của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ đều bắt nguồn từ việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ mật thiết giữa giai cấp và dân tộc.

+ Trong điều kiện của nước ta, quyền lợi của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc là thống nhất.

+ Sự gắn kết máu thịt giữa Đảng với giai cấp và dân tộc đã được thể hiện ngay từ nguồn gốc ra đời của Đảng ta. Đảng ra đời không chỉ là sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân mà còn với phong trào yêu nước.
– Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định rằng: Đảng ta không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.

– Trong báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Đảng (tháng 2 – 1951), Bác chỉ rõ: “Đảng Lao động Việt Nam phải là người lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, trung thành của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của nhân dân Việt Nam… Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”.(Trích Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr. 37 – 38).

– Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo nhân dân. Về vấn đề lợi ích, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài mục đích phục vụ nhân dân, phục vụ dân tộc. Cụ thể:

+ Trên thực tế, Đảng ta ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích không chỉ của giai cấp công nhân mà còn vì lợi ích của nhân dân lao động, của toàn dân tộc.

+ Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta nêu khẩu hiệu: “Độc lập dân tộc” và “Người cày có ruộng”.

+ Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đề ra mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

* Để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong tình hình mới, nhiệm vụ của mỗi đảng viên của Đảng là:

+ Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

+ Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Xuất phát từ thực tiễn lịch sử của nước ta đề ra đường lối, chủ trương và các chính sách đúng đắn; đồng thời bằng hành động cách mạng biến đường lối, chủ trương đó thành hiện thực sinh động trên mọi mặt của đời sống xã hội.

+ Đấu tranh kiên quyết, kịp thời chống lại mọi biểu hiện cơ hội, hữu khuynh, giáo điều, bảo thủ; phê phán những luận điệu và thủ đoạn của các thế lực thù địch phủ nhận, xuyên tạc Chủ nghĩa Mác – Lên nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Luôn luôn phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá, tri thức của thời đại để làm giàu kiến thức, giải quyết thành công những vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng nước ta, góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của thế giới.

+ Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.

+ Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên theo quan điểm của giai cấp công nhân.

+ Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, chăm lo đời sống và thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

+ Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng.

Có lợi ích giai cấp đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản (giai cấp công nhân: xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa bỏ áp bức bóc lột, giành chính quyền và làm chủ xã hội. Giai cấp tư sản không bao giờ tự rời bỏ những vấn đề cơ bản đó). Do vậy, giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để.

Bất kỳ giai cấp công nhân nước nào, khi đã có đảng tiên phong của nó, đều có những đặc điểm cơ bản, chung nhất đó. Do vậy, giai cấp công nhân mỗi nước đều là một bộ phận không thể tách rời giai cấp công nhân trên toàn thế giới. Vì vậy chủ nghĩa Mác-Lênin mới có quan điểm đúng đắn về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân.

Có ý kiến đã cho rằng : Giai cấp công nhân Việt Nam số người còn ít, không lãnh đạo được cách mạng.

Nói vậy không đúng. Lãnh đạo được hay là không, là do đặc tính cách mạng, chứ không phải do số người nhiều ít của giai cấp. Giai cấp công nhân có chủ nghĩa Mác – Lênin. Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng theo chủ nghĩa Mác – Lênin là Đảng Lao động Việt Nam. Đảng đề ra chủ trương, đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến. Lại có những phần tử trí thức tham gia cách mạng và vô sản hoá. Thành thử đội ngũ chính trị của giai cấp công nhân ngày càng phát triển. Mai sau, công nghệ của ta ngày càng phát triển, thì số công nhân ngày càng tǎng thêm

Trong thời đại ngày nay, bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản vẫn chỉ có thể là bản chất giai cấp của giai cấp công nhân; cơ sở chính trị – xã hội chủ yếu của Đảng Cộng sản phải là giai cấp công nhân trong quá trình phát triển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ; tư duy mới về giai cấp công nhân phải gắn liền với tư duy mới về chủ nghĩa xã hội hiện đại. Có thể nói, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự lạc hậu, bất cập trước đây của Đảng Cộng sản ở một số nước tư bản phát triển là do không nhận thức được điều này. Bởi vậy, ở đó, Đảng Cộng sản dần dần mất cơ sở chính trị – xã hội cần có của mình, gắn liền với những cương lĩnh ngày càng xa rời cuộc sống. Giai cấp công nhân hiện đại, nhân dân lao động không thấy được con đường đi tới một xã hội tốt đẹp hơn, mà đôi khi mất phương hướng và dường như kỳ vọng vào một tương lai nào đó trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại, khi ở đó xuất hiện và phát triển dần một số yếu tố của xã hội mới, nhưng đội tiên phong của giai cấp công nhân hiện đại đã không nhận ra để làm sinh sôi nảy nở.

Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, là Đảng của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Bởi nhiều lẽ: Đảng là con đẻ của hai phong trào: phong trào công nhân và phong trào yêu nước (chứ không chỉ là con đẻ của phong trào công nhân như ở những nước tư bản). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trong đó đặt nhiệm vụ dân tộc lên trên và lên trước, coi nhiệm vụ dân tộc là tiền đề, điều kiện tiên quyết và là cơ sở để hoàn thành nhiệm vụ giai cấp, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng động viên sức mạnh toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, coi cách mạng xã hội chủ nghĩa không chỉ là nhiệm vụ giai cấp mà còn là nhiệm vụ dân tộc, định hướng cho nhiệm vụ dân tộc, bảo đảm độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc triệt để, đưa dân tộc bỏ qua thời đại dân tộc tư sản, tiến vào thời đại dân tộc xã hội chủ nghĩa.

Là Đảng của giai cấp công nhân, trước hết Đảng phải hiểu giai cấp công nhân và dựa vào giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay đã thay đổi rất nhiều (như trên đã phân tích), đang phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, phát triển trong sự phân hóa thường xuyên – một sự phân hóa tích cực. Đó là sự phân hóa trong cơ cấu ngành nghề kinh tế – kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất; trong cơ cấu thành phần kinh tế, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất; trong phân công lao động xã hội

Bản chất giai cấp công nhân của Đảng đã được thể hiện rõ ở trong Điểu lệ Đảng hiện lên như một bức tranh toàn cảnh về cái đẹp đẽ và cao cả nhất, hiện thân cho tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất của cha ông ta từ thời kháng chiến, tinh thần ấy vẫn trường tồn tới ngày nay như bản anh hùng ca mãnh liệt cho chúng ta noi theo.

Câu 3:

Sinh ra và lớn lên tại vùng quê thanh bình và giản dị, tôi được thừa hưởng cuộc sống hòa bình trong thế kỷ XXI, được chứng kiến sự đổi thay của đất nước, như một bức tranh muôn màu sắc, tôi được học tập được tu dưỡng, trau dồi kiến thức và được tiếp xúc với nhiều bài học quý báu từ lời dạy của thầy từ câu nói của cô. Tất cả những bài học ấy luôn đọng trong tâm trí tôi như trang sách luôn sát cánh bên tôi vậy !

Tôi đặc biệt thích câu nói khi học Lịch sử lớp 12:

“Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào!

Chúng ta phải đứng lên!

Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.

Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!

Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.

Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!

Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”

Câu nói ấy luôn luôn xuất hiện trong tâm chí tôi như một tuyên ngôn cho tôi vậy. khi nhắc tới cấu nói tôi lại cảm thấy cái gì đó thôi thúc tôi càng phải phấn đấu và rèn luyện nhiều hơn nữa.

Các bạn biết câu nói đó của ai không ?

Lãnh tụ, danh nhân Hồ Chí Minh đấy các bạn ạ. Được viết vào 19/12/1946 Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

Đó chỉ là một câu nói trong rất nhiều câu nói mà tôi thích của Người, tất cả những gì thuộc về người tôi cũng đêu thích và tôn vinh như những ý nghĩa cao cả nhất.

Đã qua hơn 10 năm sống trong thế kỷ XXI nhưng tấm gương Hồ Chí Minh vĩ đại luôn được mỗi người dân Việt hướng tới.

Sau gần 5 năm triển khai và thực hiện, Cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã tạo ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức của cán bộ, đảng viên và người lao động. Thông qua nghiên cứu, học tập các chuyên đề về tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, ý thức tiết kiệm và tinh thần tương thân, tương ái… đã giúp cho toàn bộ cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên, toàn dân trong tất cả các đơn vị có những chuyển biến về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Như vậy chúng ta có thể thấy được sự cần thiết của việc học tập và làm theo tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có vai trò rất quan trọng trong công cuộc phát triển của đất nước trên tất cả mọi lĩnh vực. Được thể hiện cụ thể như sau:

Trong thời kỳ đổi mới với bao khó khăn và thử thách từ nhiệm vụ kinh tế – xã hội, an ninh và quốc phòng. Thực tiễn kinh tế – xã hội và những tình huống chiến lược cũng như những nhiệm vụ cụ thể nhiều khi chúng ta tỏ ra bế tắc chỉ vì việc học. Bế tắc không phải chúng ta không chú ý đến việc học tập đối với nền giáo dục quốc dân và đối với bộ máy nhân lực của Chính phủ chúng ta cũng đã làm được rất nhiều việc.

Nếu không, làm sao chúng ta đứng vững cho đến ngày nay với một nhà nước độc lập tự chủ, kinh tế phát triển đều đặn, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Vì vậy, xin được miễn nói những gì là thành tựu. Chỉ xin nói thêm về những thực trạng cần có đổi mới trong việc học tập cho cán bộ và công chức từ giáo huấn Hồ Chí Minh:

Chưa có chương trình cụ thể để gắn việc học với điều kiện của thực tiễn. Làm cái gì thì học cái đó trước, cái đó nhiều, cái đó suốt đời. Đưa người đã học vào bộ máy công chức là chính, lấy người chưa học là phụ (tránh tình trạng hiện nay: sinh viên thất nghiệp, công chức đi học tại chức!).

Đưa thực tiễn vào tất cả các khâu: phân bổ thời gian; bố trí con người “dạy thực tiễn” (như dạy sinh viên hành chính là trưởng phó phòng, chủ tịch, phó chủ tịch, dạy tiếp dân…).

Tiếp cận cách thức đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức trong nước với thế giới để tránh tình trạng bất cập có thể có: một bên là Việt Nam và một bên là thế giới còn lại!

Thiết nghĩ một trong những điều mà giáo huấn Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng Hồ Chí Minh chính là giá trị “đi cùng thời đại” của những giáo huấn đó

1. Đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội

Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất, là một hình thái của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực và thang bậc giá trị được xã hội thừa nhận

Đạo đức có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi người sao cho phù hợp với lợi ích của toàn xã hội

Đối với mỗi cá nhân, ý thức và hành vi đạo đức mang tính “bổn phận” diễn ra một cách tự giác, chủ yếu xuất phát từ nhu cầu tinh thần bên trong. Đạo đức của mỗi cá nhân chịu sự tác động của dư luận xã hội, cũng như sự tự kiểm tra bởi chính mình

Đạo đức có chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo dục và chức năng phản ánh.

Chức năng điều chỉnh hành vi

– Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi làm cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển, bảo đảm quan hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng.

Loài người sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi, trong đó có chính trị, pháp quyền và đạo đức…

– Chính trị điều chỉnh hành vi giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia bằng các biện pháp đặc trưng như ngoại giao, kinh tế, hành chính, bạo lực…

– Pháp quyền và đạo đức điều chỉnh hành vi trong quan hệ giữa các cá nhân với cộng đồng bằng các biện pháp đặc trưng là pháp luật và dư luận xã hội, lương tâm. Sự điều chỉnh này, có thể thuận chiều, có thể ngược chiều.

– Điều chỉnh hành vi của đạo đức và pháp quyền khác nhau ở mức độ đòi hỏi và phương thức điều chỉnh.

Pháp quyền thể hiện ra ở pháp luật, là ý chí của giai cấp thống trị buộc mọi người phải tuân theo. Những chuẩn mực của pháp luật được thực hiện bằng ngăn cấm và cưỡng bức (quyền lực công cộng cùng với đội vũ trang đặc biệt, quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù…). Pháp quyền là đạo đức tối thiểu của mỗi cá nhân sống trong cộng đồng.

Đạo đức đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa đối với các hành vi cá nhân. Phương thức điều chỉnh là bằng dư luận xã hội và lương tâm. Những chuẩn mực đạo đức bao gồm cả chuẩn mực ngăn cấm và cả chuẩn mực khuyến khích.

Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng dư luận xã hội và lương tâm đòi hỏi từ tối thiểu tới tối đa hành vi con người đã trở thành đặc trưng riêng để phân biệt đạo đức với các hình thái ý thức khác, các hiện tượng xã hội khác và làm thành cái không thể thay thế của đạo đức.

– Mục đích điều chỉnh: bảo đảm sự tồn tại và phát triển xã hội bằng tạo nên quan hệ lợi ích cộng đồng và cá nhân theo nguyên tắc hài hòa lợi ích cộng đồng và cá nhân (và khi cần phải ưu tiên lợi ích cộng đồng).

– Đối tượng điều chỉnh: Hành vi cá nhân (trực tiếp) qua đó điều chỉnh quan hệ cá nhân với cộng đồng (gián tiếp).

– Cách thức điều chỉnh được biểu hiện: Lựa chọn giá trị đạo đức; xác định chương trình của hành vi bởi lý tưởng đạo đức; xác định phương án cho hành vi bưỏi chuẩn mực đạo đức; tạo nên động cơ của hành vi bởi niềm tin, lý tưởng, tình cảm của đạo đức, kiểm soát uốn nắn hành vi bởi dư luận xã hội.

Chức năng điều chỉnh hành vi được thực hiện bởi hai hình thức chủ yếu.

– Xã hội và tập thể tạo dư luận để khen ngợi khuyến khích cái thiện, phê phán mạnh mẽ cái ác.

– Bản thân chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh hành vi cơ sở những chuẩn mực đạo đức xã hội.

Chức năng giáo dục

Con người vươn lên “chân – thiện – mỹ”. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy.

Con người sinh ra bắt gặp hệ thống đạo đức của xã hội. Hệ thống ấy tác động đến con người và con người tác động lại hệ thống. Hệ thống đạo đức do con người tạo ra, nhưng sau khi ra đời hệ thống đạo đức tồn tại như là cái khách quan hoá tác động, chi phối con người.

Xã hội có giai cấp hình thành và tồn tại nhiều hệ thống đạo đức mà các cá nhân chịu sự tác động. Ở đây, môi trường đạo đức: tác động đến đạo đức cá nhân bằng nhận thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nhận thức đạo đức để chuyển hoá đạo đức xã hội thành ý thức đạo đức cá nhân. Thực tiễn đạo đức là hiện thực hoá nội dung giáo dục bằng hành vi đạo đức. Các hành vi đạo đức lặp đi lặp lại trong đời sống xã hội và cá nhân làm cả đạo đức cá nhân và xã hội được củng cố, phát triển thành thói quen, truyền thống, tập quán đạo đức.

Hiệu quả giáo dục đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội, cách thức tổ chức, giáo dục mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục trong quá trình giáo dục.

– Giáo dục đạo đức gắn với tiến bộ đạo đức:

Nhân đạo hóa các quan hệ xã hội và mức độ phổ biến nhân đạo hóa các quan hệ xã hội; sự hoàn thiện của cấu trúc đạo đức và mức độ phổ biến của nó…sẽ giúp chủ thể lựa chọn, đánh giá đúng các hiện tượng xã hội, đánh giá đúng tư cách của người khác hay của cộng đồng cũng như tự đánh giá đúng thông qua mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung, phương thức, hình thức và các bước đi của quá trình giáo dục sẽ giúp mỗi cá nhân và cả cộng đồng tạo ra các hành vi và thực tiễn đạo đức đúng.

Như vậy, chức năng giáo dục của đạo đức cần được hiểu một mặt “giáo dục lẫn nhau trong cộng đồng”, giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và cộng đồng;mặt khác, là sự “ tự giáo dục” ở các cấp độ cá nhân lẫn cấp độ cá nhân lẫn cấp độ cộng đồng.

Chức năng phản ánh

Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận thức thông qua sự phản ánh tồn tại xã hội.

Sự phản ánh của đạo đức với hiện thực có đặc điểm riêng khác với các hình thái ý thức khác.

Đạo đức là phương thức đặc biệt của sự chiếm lĩnh thế giới con người. Nếu xét dưới góc độ bản thể luận, đạo đức là hệ thống tinh thần, được quy định bởi tồn tại xã hội. Nhưng xét dưới góc độ xã hội học thì hệ thống tinh thần (nhận thức đạo đức) không tách rời thực tiễn – hành động của con người. Do vậy, đạo đức là hiện tượng xã hội vừa mang tính tinh thần vừa mang tính hành động hiện thực.

Sự nhận thức của đạo đức có đặc điểm:

– Hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức giá trị đạo đức. Và đa số trường hợp có sự hòa quyện ý thức đạo đức với hành động đạo đức. (Khác những khoa học và ứng dụng nghiên cứu thành tựu khoa học có khoảng cách về không gian và thời gian).

– Nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại (hướng ra ngoài) và hướng nội (tự nhận thức – hương vào chính mình, chính chủ thể).

Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mức, giá trị, đời sống đạo đức của xã hội làm đối tượng. Đó là hệ thống giá trị thiện và ác, trách nhiệm và nghĩa vụ, hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống…, những “cách thức và phương tiện” tạo ra các giá trị đạo đức. Nhờ sự nhận thức này mà chủ thể nhận thức đã chuyển hóa đạo đức của xã hội như là cái chung thành ý thức đạo đức của cá nhân như là cái riêng.

Nhận thức hướng nội (tự nhận thức), lấy bản thân mình – chủ thể đạo đức – làm đối tượng nhận thức. Đây là quá trình tự đánh giá, tự thẩm định, tự đối chiếu những nhận thức, hành vi, đạo đức của mình với những chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng. Từ cách nhận thức này mà chủ thể hình thành phát triển thành các quan điểm và nguyên tắc sống: sáng tạo hay chủ động, hy sinh hay hưởng thụ, vị tha hay vị kỷ, hướng thiện hay sa vào cái ác…

Trong tự nhận thức, vai trò của dư luận xã hội và lương tâm là to lớn. Dư luận xã hội là sự bình phẩm, đánh giá từ phía xã hội đối với chủ thể, còn lương tâm là sự phê bình. Cả hai đều giúp chủ thể tái tạo lại giá trị đạo đức của mình – giá trị mà xã hội mong muốn.

Từ nhận thức giúp chủ thể ý thức được trách nhiệm của mình và sẵn sàng để ho thành trách nhiệm đó. Trong cuộc sống có vô số những trách nhiệm như vậy. Nó luôn đặt ra trong quan hệ phong phú giữa chủ thể đạo đức với xã hội, gia đình, bạn bè, đồng chí, đồng đội, tập thể, dân tộc, gia cấp, tổ quốc.

Nhận thức đạo đức (đạo đức phản ánh hiện thực) ở hai trình độ : trình độ thông thường và trình độ lý luận.

– Nhận thức đạo đức ở trình độ thông thường là ý thức thông thường, những giá trị riêng lẻ. Nó đáp ứng nhu cầu đạo đức thông thường đủ để chủ thể xử lý kịp thời trong cuộc sống và sự phát triển bình thường của xã hội. Mọi cá nhân đều có thể và cần phải ảnh ánh đạo đức ở trình độ này.

– Nhận thức đạo đức ở trình độ lý luận là những nhận thức có tính nguyên tắc được chỉ đạo bởi những giá trị đạo đức có tính tổng quát. Trình độ này đáng ứng những đòi hỏi của sự phát triển đạo đức và tiến bộ xã hội. Đây là yếu tố không thể thiếu được trong hệ tư tưởng và hành vi của các gia cấp cầm quyền.

– Nhận thức đạo đức đưa lại tri thức đạo đức, ý thức đạo đức. Các cá nhân, nhờ tri thức đạo đức, ý thức đạo đức xã hội đã nhận thức (trở thành đạo đức cá nhân). Cá nhân hiểu và tin ở các chuẩn mực, lý tưởng giá trị đạo đức xã hội trở thành cơ sở để cá nhân điều chỉnh hành vi, thực hiện đạo đức (hiện thực hóa đạo đức).

2. Về sự suy thoái đạo đức, lỗi sống trong xã hội hiện nay

Quan 20 năm đỗi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tự to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Việc thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân có tiến bộ… Đa số cán bộ, đảng viên phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu năng động, sáng tạo trong công tác, rèn luyện phẩm chất, năng lực, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới

Trong đảng và trong xã hội ta hiện nay xuất hiện tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống. Đó là nguy cơ lớn liên quan tới sự sống còn của Đảng của chế độ.

Sự suy thoái về đạo đức,lối sống được biểu hiện ở các dạng chủ yếu sau đây:

Thứ nhất là: chủ nghĩa cá nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, buông thả hưởng thụ, thiếu lý tưởng, thiếu ý chí phấn đấu xuất hiện trong tất cá các tầng lớp xã hội.

Thứ hai là: tệ tham nhũng, hối lộ, bòn rút của công, lãng phí diễn ra ở nhiều ngành nhiều lĩnh vực đang trở thành “quốc nạn” gây bức xúc cho nhân dân

Thứ ba là: hành động cơ hội “chạy chọt” vì lợi ích cá nhân khá phổ biến

Thứ tư là: lời nói không đi đôi với việc làm, nói và làm trái với nghị quyết của Đảng, nói nhiều làm ít; phát ngôn tủy tiện, vô nguyên tắc

Thứ năm là: tệ quan liêu, xa dân, lãnh đạo vô cảm trước những khó khăn bức xúc và yêu cầu, đòi hỏi chính đáng của nhân dân

Thứ sáu là : tình trạng suy thoái về đạo đức trong quan hệ gia đình với quan hệ giữa cá nhân và xã hội, như gia trưởng vũ phu bất hiếu

Thứ bảy là: đạo đức nghề nghiệp sa sút ngay cả trong lĩnh vực được xã hội tôn vinh, hiện tượng mê tín dị đoan có chiều hướng lan rộng ảnh hưởng xấu tới thuần phong mĩ tục và trật tự an toàn xã hôi.

Nguyên nhân của tình trạng trên có cả khách quan và chủ quan

Về khách quan: trước hết do tác động tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường đặc biệt là khả năng kích thích lối sống thực dụng của cơ chế này. Sự tác động của đạo đưc, lối sống tư sản hưởng thụ phương tây vào nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và bùng nổ mạng thông tin toàn cầu. các thế lực thù địch phản động đã chủ động khuyến khích lối sống ích kỷ, hưởng thụ, thực dụng trong cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo và gia đình họ coi đó là một trong những biện pháp thực hiện “ diễn biến hòa bình”:

Về nguyên nhân chủ quan: do chúng ta chưa nhận thực đầy đủ sâu sắc vai trò nền tảng của đạo đức trong ổn định, phát triển xã hội và tác động của cơ chế kinh tế thị trường tới đạo đức xã hội trên thực tế chúng ta chưa coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống; thiếu sự tổ chứ, phối hợp cảu các ngành các cấp. một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên và gia đình chưa nêu gương về đạo đức và lối sống

Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống nêu trên đã có tác động lớn đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay. Nó đang làm thay đổi lệch lạc những chuẩn mực thang bậc giá trị truyền thống giá trị tốt đẹp của dân tộc và cách mạng, có tác hại tới sự trường tồn của dân tộc và sự phát triển của đất nước, sự suy thoái về đạo đức của một số bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho nhân dân lo lắng, bất bình, ảnh hưởng xấu tới uy tín và vai trò lãnh đạo cuả tổ chức đảng, đến việc tổ chức thực hiện đường lối chủ trương của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước thực trạng đó tiềm ẩn nhiều nguy cơ, cùng với các nguy cơ khác dẫn tới bất ổn định chính trị xã hội, liên quan đến “sự sống còn của đảng, của chế độ”

Để năng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng ngăn chặn và đẩy lùi suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, trong đảng và trong xã hội, hội nghị trung ương III khóa X của đảng đã ban hành nghị quyết “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí” Ngày 7/11/2006 Bộ Chính Trị Ban Chấp hành TW Đảng ra chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn đảng và xã hội. thực hiện tốt cuộc vận động này sẽ góp phấn quan trọng vào cuộc đấu tranh và đẩy lùi suy thoái về đạo đức, lối sống trong đảng và trong xã hội

Sự cần thiết phải học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.

– Hiện nay đất nước đang trên đà đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa trên tất cả các mặt trận, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của người ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, đóng vai trò chủ đạo trong suy nghĩ và hành động của các cấp lãnh đạo và toàn dân.

– Như chúng ta đã biết, lúc sinh thời Bác Hồ của chúng ta đã khẳng định: Đạo đức là gốc của cách mạng. Bác coi đạo đức của con người như gốc của cây, như nguồn của sông. Người luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng và tích cực của đạo đức trong đời sống xã hội. Bởi vậy, học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức, lối sống theo tấm gương Bác Hồ trong giai đoạn hiện nay là điều rất cần thiết và quan trọng.

– Là một cán bộ viên chức, bản thân nhận thức được rằng việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu là một trách nhiệm đối với bản thân để từng bước hoàn thiện mình. Trong cuộc sống đời tư cũng như trong công việc, bản thân luôn xác định rằng: “Việc gì có lợi dù nhỏ cũng làm, việc gì có hại dù nhỏ cũng tránh” và tuyệt đối tránh lãng phí cả về tiền bạc và thời gian, luôn phát huy ý thức bảo vệ của công, gần gũi, sâu sát với quần chúng nhân dân, lấy tiêu chuẩn người cán bộ cách mạng để làm mục tiêu phấn đấu.

Những phẩm chất đạo đức cách mạng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mà cán bộ, đảng viên, công chức phải thường xuyên học tập và noi theo:

+ Những phẩm chất đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

– Trung với nước hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc, phải “tuyệt đối trung thành với Đảng với nhân dân”.

– Tinh thần dân chủ, tôn trọng tập thể, tôn trọng quần chúng nhân dân, luôn luôn quan tâm đến mọi người, gắn bó với nhân dân. Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ tốt đẹp hơn, phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm.

– Cần kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong công tác: biết lao động cần cù, siêng năng và biết tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của nhân dân của đất nước và của bản thân.

– Liêm chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ phải ngay thẳng, không tà, trong sạch, “luôn chí công vô tư” là rất mực công bằng, không có lòng riêng, thiên tư, thiên vị. Đem lòng chí công vô tư đối với người, đối với việc.

+ Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh:

– Trọn đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và nhân loại.

– Kiên định mục đích lý tưởng, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm, khí phách vượt qua khó khăn thử thách.

– Kính trọng nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc, nguyện làm “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

– Nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người, “dành tình thương yêu cho tất cả, chia sẻ với mỗi người nỗi đau”.

– Coi khinh sự sa hoa, sống thật sự cần kiệm giản dị, sống trong sạch, không gợn chút riêng tư.

Đó chỉ là vấn đề lý thuyết còn thực tế thì sao? Gần 5 năm thực hiện cuộc vấn động nước ta đã đạt được những thành tựu gì, các cơ chế về đạo đức có được thay đổi các tình trạng quan tham ô liệu có còn, đó là những cấu hỏi mà không chỉ riêng tôi đưa ra mà nó là tình trạng chung của tất cả chúng ta

Bấy lâu nay chúng ta chỉ thấy được trên lý thuyết còn phần thực hiện hay không thực sự rất khó, đòi hỏi mỗi địa phương có cái nhìn khái quát và toàn diện nhất chứ nhất định khổng thể nhìn nhận bằng những con số trên giấy tờ mà thực tiễn không phản ánh đúng.

Là người dân Việt, là những đảng viên trẻ tương lai chúng ta hãy cần có sự gắn kết giữa lý luận và thực tiễn sao cho phù hợp học tập theo bác như một chuẩn mực một tiền đề cho chúng ta tiến bước đi lên, phấn đấu nỗ lực vì sự phát triển bền vững của đất nước, hãy tạm gác lại lợi ích cá nhân, hãy bỏ qua những xiềng xích bấy lâu mà vì tổ quốc, vì lợi ích của nhân dân mà phục vụ. hãy thể hiện hành động trước tiên, các nhà lãnh đạo hãy thể hiện bằng tất cả những gì mà họ có đi, đừng lời nói rồi bắt người khác phải làm, đừng chỉ là chuyến thăm quan đơn giản mà làm tốn kém bao nhiêu của cải của địa phương, hãy bỏ qua bớt thủ tục để có sự đơn giản, sự thân thiết giữa “quan” và “dân” hãy thể hiện mình là người bình dị và mến khách.

Liên hệ:

Tôi hiện là sinh viên năm thứ 3 chuyên ngành Giáo dục học – Học Viện Quản Lý Giáo Dục bản thân tôi cũng rất tích cực tham gia vào các hoạt động của trường đặc biệt là lĩnh vực tình nguyện. trong quá trình học tập tại trường, Bên phòng công tác – chính trị luôn phát động các cuộc thi liên quan tới Người, về tư tưởng tấm gương và đạo đức Hồ Chí Mình.

Đặc biệt là cuộc thi văn nghệ “ Tiếng hát toàn Học viện với nội dung về Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh năm 2009 thu hút được hấu hết tất cả sinh viên toàn trường tham gia

Là một trường mới được thành lập lên các phong trào đưa ra chưa được toàn diện nhưng đã thu hút được số đông tham gia, các chủ đề luôn được đưa ra về ca ngợi Đảng, Bác Hồ kính yêu

Các cuộc thi không chỉ liên quan tới phòng chính trị dưới sự chỉ đạo của Chi Bộ Đảng nhà trường, còn có sự tham gia tích cực của Đoàn thanh niên Học Viện với các cuộc thi với chủ đề học tấp và làm theo tấm gương đạo đức của Người, gắn kết trong phong trào toàn diện về văn hóa văn nghệ thể dục thể thao

Gắn kết trong phòng trào học tập, chống tiêu cực trong thi cử, thi đua học tập tốt theo gương Bác

Bản thân là bí thư lớp tôi cũng thường xuyên đưa ra những buổi thảo luận ở tại lớp về Tấm gương đạo đức hồ chí mình, đặc biệt là cuộc thi kể chuyện về Bác đã được tất cả thành viên trong chi đoàn tham gia, qua các bài hùng biện về Người chúng tôi càng hiểu thêm về Bác về công lao to lớn, về tư tưởng bất hủ của Người và với nguyện vọng là thế hệ đi sau chúng tôi sẽ cố gắng phát huy tất cả những sở trưởng thế mạnh của mình sao cho hợp với chuẩn mực của đạo đức của tư tưởng của người đã để lại. Tất cả thành viên trong lớp đều học tập đạt kết quả cáo 100% học lực Khá trở lên và cố gắng phấn đấu để trở thành những Đoàn viên tốt để đạt được vào chỉ tiêu học cảm tình Đảng của trường…

Thực hiện đường lối tiết kiệm trong các cuộc thi, các hoạt động, đưa sinh viên tham quan Lăng Chủ Tich để hiểu thêm về lãnh tụ của đất nước….

Từ khi Đảng phát động phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” toàn thể sinh viên Học Viện luôn có ý thức phấn đấu trong công tác học tập, tu dưỡng và rèn luyện bản thân, và đã đạt được nhiều thành tích cao trong công tác của trường, lớp. luôn lấy tư tưởng của người làm ánh sáng soi đường cho chúng ta, tiến bước đi lên như hành trang để tiến tới thành công.

Để thay cho lời kết của mình tôi xin đưa ra hai câu nói bất hủ của Người:

« Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi.”

“Cô giáo, thầy giáo trong chế độ ta cần phải góp phần vào công cuộc xây dựng XHCN. Phải có chí khí cao thượng, phải “tiên ưu, hậu lạc”, nghĩa là khó khăn thì chịu trước thiên hạ, sung sướng thì hưởng sau thiên hạ. Người thầy giáo tốt, thầy giáo xứng đáng là thầy giáo, là người vẻ vang nhất. Dù tên tuổi không đăng lên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy tốt là những anh hùng vô danh….”

Tôi, bạn và bạn nữa…cùng chung tay góp sức vì một Việt Nam bừng sáng trên trường quốc tế, cùng học tập thi đua, nỗ lực tất cả, chúng ta có đầy đủ điều kiện để đi lên, chúng ta phải hứa với lòng mình là sẽ thành công. Cùng đoàn kết gắn bó, hợp sức vì ở đó ta mới thấy mình tự tin hơn, vững vàng hơn

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công”

Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm tại mục thủ tục hành chính trong mục biểu mẫu nhé.

0 ( 0 bình chọn )

Thi Quốc Gia Thi THPT Quốc Gia 2021 của nhà xuất bản Giáo Dục Việt nam

https://thiquocgia.vn
Tổng hợp tài liệu ôn thi THPT Quốc Gia 2020 - 2021, Thi tốt nghiệp, Tài liệu luyện thi

Bài viết liên quan

Bài viết mới

Xem thêm