Dân sựHỏi đáp pháp luật

Các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015

Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
126

Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Bản in

Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Bộ luật TTDS 2015

Sau khi Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có hiệu lực, một số tòa án địa phương đã có những quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, những biện pháp này vẫn tồn tại một số hạn chế. Nội dung chi tiết mời các bạn cùng tham khảo.

Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP hướng dẫn quy định Bộ luật tố tụng dân sự 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện

Nghị quyết 01/2017/NQ-HĐTP biểu mẫu trong tố tụng dân sự

Phân biệt vụ án hình sự và vụ án dân sự

Hỏi:

Trong luật Bộ luật tố tụng dân sự 2015 ngày 25/11/2015. Xin Luật sư cho biết những hạn chế các biện pháp khẩn cấp tạm thời khi luật này có hiệu lực áp dụng thực tiễn.?

Trả lời:

1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

2. Luật sư tư vấn:

Chế định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được xây dựng tại Chương thứ VIII Bộ luật tố tụng dân sự 2015 là cơ sở pháp lý quan trọng cho Toà án trong việc quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để đáp ứng yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, đảm bảo cho việc xét xử và thi hành án. Điều 114 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định các biện pháp khẩn cấp tạm thời bao gồm:

“1. Giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

2. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.

3. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm.

4. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.

5. Tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động.

6. Kê biên tài sản đang tranh chấp.

7. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.

8. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.

9. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác.

10. Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ.

11. Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ.

12. Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định.

13. Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ.

14. Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình.

15. Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu.

16. Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.

17. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà luật có quy định.”

Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng có thể sẽ bộc lộ nhiều bất cập và hạn chế. Cụ thể :

Thứ nhất, đối với biện pháp kê biên tài sản: thì theo quy định thì chỉ áp dụng đối với tài sản đang bị tranh chấp còn đối với các tài sản khác thì không được áp dụng. Điều này cho thấy phạm vi áp dụng của biện pháp này là rất hẹp nên có thể dẫn đến hiệu quả của biện pháp này không cao.

Ngoài ra, theo khoản 3 Điều 133 Bộ luật tố tụng dân sự 2015:

“Đối với trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều 111 của Bộ luật này thì sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo, Chánh án Tòa án phân công ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.” Luật không quy định rõ ràng là trong trường hợp thực sự khẩn cấp Toà án có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời vào các ngày lễ hoặc ngày nghỉ hay không.

Thứ hai, đối với biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp. Hiện nay, pháp luật quy định biện pháp này cũng chỉ áp dụng cho tài sản đang tranh chấp còn những tài sản không tranh chấp thì không được áp dụng. Điều này đã hạn chế phần nào hiệu quả của biện pháp. Để áp dụng biện pháp này có hiệu quả tốt nhất Bộ luật tố tụng dân sự 2015 nên quy định theo hướng mở rộng phạm vi áp dụng của biện pháp đối với cả những tài sản không phải là tài sản đang tranh chấp.

Thứ ba, trường hợp khi áp dụng mà gây thiệt hại hoặc không đúng thì sẽ phải bồi thường thiệt hại trong các trường hợp cụ thể tại Điều 113 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về trách nhiệm do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng:

“1. Người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình; trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường.

2. Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì Tòa án phải bồi thường nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Tòa án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

b) Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu;

c) Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cơ quan, tổ chức, cá nhân;

d) Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng thời hạn theo quy định của pháp luật hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không có lý do chính đáng.

3. Việc bồi thường thiệt hại quy định tại khoản 2 Điều này được thực hiện theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.”

Khi ra chấp nhận yêu cầu áp dụng, ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phía Tòa án vẫn có thể chưa xem xét cụ thể vụ việc từ đó mới dẫn tới áp dụng sai, áp dụng nhầm.Theo quy định như hiện nay, cứ người yêu cầu có đề nghị là thẩm phản ra quyết định áp dụng, sau đó nếu sai thì người yêu cầu chịu trách nhiệm. Như vậy, người yêu cầu sẽ có tâm lý e ngại vấn đề này mà người có thẩm quyền cũng xem nhẹ trách nhiệm của mình.

Thứ tư, nhìn chung đa phần các biện pháp khẩn cấp tạm thời này khi áp dụng sẽ có lợi cho người yêu cầu, đảm bảo được lợi ích của họ, đảm bảo cho quá trình xét xử vụ án. Tuy nhiên, trong một số trường hợp tài sản tranh chấp xuất hiện sự có mặt của bên thứ ba thì các biện pháp này cũng sẽ ảnh hưởng nhất định tới quyền lợi của họ và nhiều trường hợp để bảo vệ cho lợi ích của người thứ ba mà tài sản bị tẩu tán, thiệt hại thuộc về đương sự. Bộ luật tố tụng dân sự 2015 cũng chưa đề cập rõ vấn đề này và những quy định về khả năng kháng cáo của người thứ ba có được chấp nhận không.

Thứ năm, việc quy định biện pháp bảo đảm đối với người yêu cầu thực hiện áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản đang có tranh chấp như hiện nay dường như một rào cản đối với việc thi hành những quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời. Bởi lẽ có rất nhiều những trường hợp mà đương sự trong vụ án chỉ có một tài sản duy nhất là tài sản đang có tranh chấp, hoàn cảnh sống thuộc mức khó khăn thì việc thực hiện biện pháp bảo đảm là khó. Pháp luật cần phải quy định rõ những trường hợp như vậy, quy định cụ thể về những trường hợp mà đương sự yêu cầu có thể được miễn vấn đề đảm bảo hoặc thay thế bằng những biện pháp khác.

0 ( 0 bình chọn )

Thi Quốc Gia Thi THPT Quốc Gia 2021 của nhà xuất bản Giáo Dục Việt nam

https://thiquocgia.vn
Tổng hợp tài liệu ôn thi THPT Quốc Gia 2020 - 2021, Thi tốt nghiệp, Tài liệu luyện thi

Bài viết liên quan

Bài viết mới

Xem thêm