I.Giới thiệu chung

1.Tác giả


– Cuộc đời, tình duyên nhiều éo le, ngang trái.
– Sáng tác cả chữ Nôm và chữ Hán.
– Phong cách nghệ thuật: trào phúng mà trữ tình.
– Mệnh danh: “bà chúa thơ Nôm”

2.Hình ảnh người phụ nữ làm thơ


– Trong văn học trung đại, đa số tác giả là nam giới, số tác giả nữ chiếm tỉ lệ rất thấp và hình ảnh người phụ nữ được nói đến trong văn học cũng không nhiều. Đặc điểm này là do xã hội trọng nam khinh nữ tạo nên.
=> Hồ Xuân Hương là nhà thơ nữ hiếm có đã lên tiếng thổ lộ tâm tư sâu kín của bản thân.


3.Thể thơ

Đường luật (thất ngôn bát cú):
– Là thể thơ có chức năng nói chí của con người trong hoạt động xã hội, cảm hoài, tự thuật, bộc lộ con người đạo đức của nhà nho.
– Tự tình (II) được viết chỉ thể hiện nỗi niềm riêng tư cá nhân, buồn chán vì tình duyên không toại nguyện. Hơn nữa, người phụ nữ trong xã hội phong kiến được giáo dục tinh thần cam chịu.
=> Ý thức mạnh mẽ về quyền sống, quyền hạnh phúc của Hồ Xuân Hương.

II.Phân tích tác phẩm


1.Nhân vật trữ tình trong bài thơ


– Là “hồng nhan”, người phụ nữ đẹp cô đơn, một mình uống rượu trong đêm khuya vắng.


2.Kết cấu bài thơ

Cảnh – tình (tả cảnh ngụ tình, tình ẩn sau cảnh)
a. 4 câu thơ đầu:
– Thời gian: Đêm khuya
– Không gian: Cảnh khuya
– Từ láy “văng vẳng” càng tăng thêm độ vắng vẻ
=> Thường đêm khuya là lúc con người nghỉ ngơi sau một ngày lao động nhưng ở đây đêm đã khuya mà nhân vật trữ tình vẫn ngồi trầm ngâm, suy tư, lòng ngổn ngang tâm sự.
– Từ “trơ” đứng đầu câu như có chút gì đó bẽ bàng, tủi thân. Cô đơn của người phụ nữ.
-Đêm trôi qua chậm chạp vì sự lặp đi lặp lại “văng vẳng” của tiếng trống canh và sự “say lại tỉnh” của con người.
– “Trơ cái hồng nhan với nước non”: câu thơ sử dụng tiểu đối, hồng nhan với nước non, đối giữa cái nhỏ bé, cô đơn của con người với cái mênh mông, rộng lớn, choáng ngợp của vũ trụ.
=> Ta như thấy hình ảnh tội nghiệp của người phụ nữ chìm vào cảnh vật, bị bóng đêm nuốt trọn trong cô đơn.
=> 4 câu thơ đầu diễn tả sự cô đơn, trống vắng, lặp đi lặp lại của cuộc sống thiếu hạnh phúc.
b. 2 câu thơ tiếp:
– Nghệ thuật đảo ngữ: đưa hai động từ mạnh là “xiên” và “đâm” lên đầu câu
-> Trái với sự tính tại, vắng vẻ của không gian, cảnh vật như được thổi hồn với những hành động mạnh mẽ.
=> Bản thân cảnh vật không thể giận dữ, quyết liệt như vậy mà chính tâm lý bất bình, phản kháng của con người đã hình dung và tưởng tượng ra cảnh vật ở trạng thái đó.
=> Hai câu thơ 5+6: hình ảnh thơ diễn tả sự bứt phá, cựa quậy mạnh mẽ khỏi sự giam hãm tù túng.
c. Hai câu thơ cuối:
– Tính từ ‘ngán” đặt đầu câu thơ bộc lộ trực tiếp trạng thái tâm lý, tình cảm của nhân vật trữ tình.
– “Xuân” vừa là năm tháng của tự nhiên vừa là tuổi trẻ của con người mòn mỏi
=> Nỗi buồn chán, cô đơn đằng đẵng không gì thay đổi.
– “Mảnh tình san sẻ tí con con”: “mảnh” vốn đã nhỏ bé lại còn phải san sẻ
-> Người phụ nữ đã không im lặng, không chấp nhận hay cam chịu thân phận cô đơn, lẻ loi mà lên tiếng công khai nỗi chán ngán vì tình yêu bé mọn, không tương xứng.
=> Nhân vật trữ tình trong bài thơ chịu đựng bi kịch tình duyên nhưng không chấp nhận mà khát khao một hạnh phúc xứng đáng. Đây là nét mới có ý nghĩa thời đại vì như đã nói, người phụ nữ xưa được giáo dục tinh thần cam chịu.


3.Ngôn ngữ nghệ thuật


– Nghệ thuật sử dụng từ ngữ:
+ Ngôn từ tọa nên âm thanh -> tăng thêm cảm giác trống vắng của đêm khuya: “văng vẳng”, “canh dồn”
+ Từ ngữ giàu tính tạo hình: “trơ cái hồng nhan”, “xiên ngang”, “đâm toạc”
+ Nhịp điệu lặp đi lặp lại nhàm chán của cuộc sống thiếu tình yêu được diễn tả bằng các chu kỳ say – tỉnh, khuyết – tròn, xuân đi – xuân lại.

Bài tham khảo

Trong hệ thống những bài thơ mang chứa tâm sự của Hồ Xuân Hương, “Tự tình” là một trong những bài thơ hay nhất.

Sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy sóng gió (nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX), Hồ Xuân Hương là người chứng kiến và phần nào chịu ảnh hưởng cái không khí sôi sục của phong trào quần chúng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người. Không khí ấy tác động đến tâm hồn vốn thông minh và giàu lòng trắc ẩn của bà. Bà uy nghiêm, thức tỉnh, trăn trở về đời mình, một cuộc đời lắm éo le, bạc phận: Lấy chồng hai lần, hai lần làm lẽ và hai lần chồng đều chết sớm. Điều đó, với bà là những biểu hiện cụ thể, đầy nước mắt của nỗi đau “hồng nhan bạc phận”. Mở đầu bài thơ “Tự tình”, tác giả gợi ra một khoảng thời gian, một góc không gian xao xác tiếng gà. Đây là một thứ không gian, thời gian nghệ thuật được vận dụng làm nền cho sự thổ lộ tâm trạng tác giả: “Cảnh khuya văng vẳng trống canh dồn”. “Văng vẳng” chính là từ tượng thanh nhưng ở đây nó vừa biểu thị tâm trạng, không khí, cái không khí buồn vắng lặng của một người thao thức giữa đêm khuya thanh vắng. Câu thứ hai nhức nhối một tâm sự:

“Trơ cái hồng nhan với nước non”

Hay nhất của câu thơ thứ hai là từ “trơ”. Trơ là trơ trọi, cô đơn, lẻ loi. Nhà thơ cảm nhận nỗi buồn hồng nhan. Một nỗi buồn “cụ thể” càng kinh khủng hơn khi cọ xát với toàn xã hội, toàn cuộc đời: “nước non”. Một nỗi buồn đè nặng lên tâm sự bà, lên số phận của người phụ nữ. Không chịu đựng nổi, bà muốn chống lại, thoát khỏi. “Chén rượu hương đưa” là một phương tiện. Không phải phương tiện duy nhất nhưng hầu như là cuối cùng cho một đè nén quá mức. Thế nhưng, bi kịch vẫn cứ là bi kịch:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”.

Câu thơ nữ sĩ gợi nhớ một câu thơ đầy trầm tư của Lí Bạch:

“Dùng gươm chém nước, nước chẳng dứt

Uống rượu tiêu sầu, sầu vẫn sầu”

Bất lực, câu thơ chuyển sang một sự cám cảnh sinh tình. Hồ Xuân Hương nói:

“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”

Trong quan điểm thẩm mĩ xưa, vầng trăng tượng trưng cho cuộc đời, tuổi tác của người phụ nữ. Câu “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” vừa là một hình ảnh đẹp, có thực nhưng đượm buồn. Cái buồn của một “vằng trăng khuyết”. Đối với thơ xưa, cảnh là tình, cảnh trăng khuyết man mác, gợi nhớ cuộc đời bà. Trong “mời trầu ” bà đã ẩn ý suy nghĩ như vậy.

Sang câu 5, 6 tứ thơ như đột ngột chuyển biến. Sự cụ thể trong miêu tả khiến việc tả cảnh trở nên thuần khiết. Một cảnh thực hoàn toàn:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây đá mấy hồn”

Nghê thuật đảo ngữ và đối tạo nên sự sinh động và cảnh đầy sức sống. Một sức sống nhờ tài quan sát của bà như quẫy đạp, cựa mình. Cảnh này chỉ có thể là cảnh của “Bà chúa thơ nôm” chứ không phải của ai khác. Rõ ràng, dẫu đang rất buồn, rất cô đơn nhưng điều đó vẫn không suy giảm chất riêng của Hồ Xuân Hương. Bản lĩnh, sức sống mãnh liệt, sự khao khát với cuộc đời khiến cho dù lòng đầy cám cảnh bà vẫn nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời, tha thiết, chứa chan sức sống. Đó là sự lí giải về những phản kháng, đối nghịch trong bản chất bà, tạo nên những vần thơ châm biếm đối lập. Vũ khí ấy hơn hẳn chén rượu “say rồi tỉnh”. Đó là phương tiện kì diệu nâng đỡ tâm hồn bà. Chỉ như thế mới có thể hiểu tâm trạng, tiếng thở dài của Hồ Xuân Hương, ở hai câu thơ kết :

“Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con!”.

Yêu đời là thế, sức sống mãnh liệt là thế mà cuộc đời riêng thì vẫn: “Xuân đi xuân lại lại. ”, điệp từ chỉ cái vòng luẩn quẩn đáng ghét, vô vị của ngày tháng, cuộc đời. Điều này khiến bà không tránh khỏi một tiếng thở dài chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa cái tuần hoàn thời gian ấy là một “mảnh tình” đang bị san đi, sẻ lại… chia xới. Đối với trái tim thiết tha với đời kia, điều đó như một vết thương, nhức nhối.

Người ta nói rằng thơ là tâm trạng, là một bức thông điệp thẩm mĩ. Đọc “Tự tình”, là thấu hiểu được tâm sự ẩn chứa bi kịch của Hồ Xuân Hương. Là một nhân cách luôn khao khát hạnh phúc, là một tâm hồn tràn đầy sức sống, yêu đời lại bắt gặp toàn những dở dang, bất hạnh, điều đó tạo nên trong thơ bà có khi là môt tiếng thở dài. Một tiếng thở dài đáng quý của một người có hoài bão nhưng không thể thực hiện được, trách nhiệm là ở phía xã hội phong kiến, một xã hội mà hạnh phúc riêng đã đối lập thật gay gắt với cơ cấu xã hội chung. Trong chiều hướng ấy, “Tự tình” là một bài thơ đòi quyền hạnh phúc, một lời phản kháng độc đáo lại chứa chan tiếng nói bênh vực của người phụ nữ, tạo được sự thấu hiểu, đồng cảm với những cảnh ngộ éo le, trắc trở.