Phổ biến Pháp luật

Câu hỏi tình huống pháp luật về phòng, chống mại dâm có đáp án

90

Câu hỏi tình huống pháp luật về phòng, chống mại dâm

Bộ câu hỏi tình huống pháp luật về phòng, chống mại dâm có đáp án trong bài viết sau đây của Hoatieu sẽ là tài liệu bổ ích giúp người dân nâng cao hiểu biết về phòng chống tệ nạn mại dâm.

Chủ đề 1. Những quy định chung về phòng, chống mại dâm; biện pháp và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân, gia đình trong phòng, chống mại dâm (20 câu)

Câu hỏi số 1

Chị H có căn hộ cho thuê nhưng chị không biết người thuê căn hộ của mình đã sử dụng căn hộ làm địa điểm bán dâm. Có người nói việc chị H cho thuê căn hộ như vậy vẫn bị coi là tội chứa mại dâm. Xin hỏi thế nào là chứa mại dâm ? Hành vi của chị H có phải là chứa mại dâm không?

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm thì chứa mại dâm là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm và đây là một trong những hành vi vi phạm pháp luật bị nghiêm cấm.

Cho thuê, cho mượn địa điểm, phương tiện để hoạt động mại dâm là hành vi của tổ chức, cá nhân có quyền quản lý, chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản mà cho thuê, cho mượn để hoạt động mại dâm.

Trường hợp chị H cho thuê căn hộ thuộc quyền quản lý, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của mình nhưng không biết mục đích của người thuê căn hộ là để sử dụng vào hoạt động bán dâm nên hành vi của chị H không phải là chứa mại dâm.

Câu hỏi số 2

Xin cho biết các hành vi vi phạm pháp luật bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật về phòng, chống mại dâm?

Trả lời :

Điều 4 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm quy định nghiêm cấm các hành vi sau đây:

– Mua dâm (là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu)

– Bán dâm (là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác)

– Chứa mại dâm (là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm)

– Tổ chức hoạt động mại dâm (là hành vi bố trí, sắp xếp để thực hiện việc mua dâm, bán dâm)

– Cưỡng bức bán dâm (là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn buộc người khác phải thực hiện việc bán dâm)

– Môi giới mại dâm (là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm trung gian để các bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm)

– Bảo kê mại dâm (là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín hoặc dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mại dâm)

– Lợi dụng kinh doanh dịch vụ để hoạt động mại dâm;

– Các hành vi khác liên quan đến hoạt động mại dâm theo quy định của pháp luật.

Câu hỏi số 3

Xin cho biết tổ chức hoạt động mại dâm và môi giới mại dâm có khác nhau không? Thế nào là tổ chức hoạt động mại dâm, môi giới mại dâm?

Trả lời :

Tổ chức hoạt động mại dâm và môi giới mại dâm là những hành vi khác nhau. Theo giải thích tại Khoản 5, Khoản 7 Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm, tổ chức hoạt động mại dâm và môi giới mại dâm được hiểu như sau:

– Tổ chức hoạt động mại dâm là hành vi bố trí, sắp xếp để thực hiện việc mua dâm, bán dâm.

– Môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm trung gian để các bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm.

Tổ chức hoạt động mại dâm, môi giới mại dâm đều là những hành vi vi phạm pháp luật và bị nghiêm cấm theo Pháp lệnh phòng, chống mại dâm.

Câu hỏi số 4

Thế nào là bảo kê mại dâm và các hành vi khác liên quan đến hoạt động mại dâm

Trả lời :

Khoản 8 Điều 3Pháp lệnh phòng, chống mại dâm giải thích về bảo kê mại dâm như sau:

– Bảo kê mại dâm là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín hoặc dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mại dâm.

– Đối với các hành vi khác liên quan đến hoạt động mại dâm, theo giải thích tại Điều 3 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP, là hành vi tiếp tay, che giấu, dung túng để tạo điều kiện, khuyến khích các hoạt động mại dâm

Bảo kê mại dâm và các hành vi khác liên quan đến hoạt động mại dâm là những hành vi vi phạm pháp luật và bị nghiêm cấm theo Pháp lệnh phòng, chống mại dâm.

Câu hỏi số 5

Xin cho biết trách nhiệm của cá nhân trong phòng, chống mại dâm ?

Trả lời :

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm, các cơ quan, tổ chức, cá nhân và gia đình có trách nhiệm thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống mại dâm.

Điều 8 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP quy định mọi cá nhân có trách nhiệm:

– Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về phòng, chống mại dâm;

– Tham gia tích cực các hoạt động phòng, chống mại dâm;

– Giáo dục, quản lý, ngăn ngừa để thành viên trong gia đình mình không tham gia tệ nạn mại dâm;

– Phát hiện, cung cấp kịp thời các thông tin về tệ nạn mại dâm cho cơ quan Công an hoặc cơ quan khác có thẩm quyền.

Câu hỏi số 6

Là cô bé ham chơi, lười lao động lại thích ăn chơi, hưởng thụ, T đã nghe bạn xấu rủ rê vào con đường bán thân nuôi miệng. Bố mẹ nhiều lần khuyên can, thậm chí đã có lần bắt nhốt T trong nhà để ngăn cản T nhưng T vẫn chứng nào tật ấy. Quá buồn vì không giáo dục được T, gia đình T tuyên bố từ con. Xin cho biết trách nhiệm của gia đình trong phòng, chống mại dâm nói chung và trách nhiệm của gia đình có người bán dâm nói riêng được pháp luật quy định như thế nào ?

Trả lời:

Điều 13 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm và Khoản 1 Điều 9 Nghị định 178/2004/NĐ-CP quy định về trách nhiệm của gia đình trong phòng, chống mại dâm nói chung như sau:

Gia đình có trách nhiệm giáo dục các thành viên của gia đình về lối sống lành mạnh, phát huy truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình văn hoá; phối hợp với cơ quan, tổ chức và Uỷ ban nhân dân địa phương trong việc giáo dục, quản lý thành viên của gia đình có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm, tạo điều kiện để họ hoà nhập cộng đồng.

Đồng thời, mỗi gia đình có trách nhiệm giáo dục các thành viên trong gia đình về các nội dung:

+ Xây dựng gia đình hoà thuận, sống chung thuỷ lành mạnh;

+ Tuyên truyền, giáo dục các thành viên trong gia đình mình về phòng, chống mại dâm;

+ Tham gia tích cực các hoạt động phòng, chống mại dâm;

+ Phối hợp chặt chẽ và giúp đỡ Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan, tổ chức hữu quan tiến hành quản lý, giáo dục người có hành vi mua dâm, bán dâm ở tại địa phương.

Ngoài trách nhiệm nêu trên, gia đình có người bán dâm còn có trách nhiệm:

+ Quản lý, giúp đỡ, chăm sóc người bán dâm được giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo sự hướng dẫn, giám sát của tổ chức, cá nhân được phân công giúp đỡ và của chính quyền cơ sở;

+ Quản lý, giám sát, phòng ngừa, ngăn chặn người bán dâm tái phạm hoặc có hành vi gây mất trật tự an toàn xã hội;

+ Động viên, giúp người bán dâm xoá bỏ mặc cảm, tạo điều kiện để họ hoà nhập cộng đồng.

Câu hỏi số 7

Xin cho biết trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong phòng, chống mại dâm?

Trả lời :

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 8 của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm, các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống mại dâm; động viên, khuyến khích việc phát hiện, tố giác, đấu tranh với tệ nạn mại dâm và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm.

Câu hỏi số 8.

Đề nghị cho biết trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận trong phòng, chống mại dâm?

Trả lời:

Điều 9 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:

– Phối hợp chặt chẽ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên truyền, vận động, giáo dục, phổ biến pháp luật về phòng, chống mại dâm;

– Giáo dục thành viên của tổ chức mình thực hiện pháp luật về phòng, chống mại dâm;

– Tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống mại dâm;

– Tham gia giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm để giúp người bán dâm hoà nhập cộng đồng.

Câu hỏi số 9

Nội dung tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống mại dâm được pháp luật về phòng, chống mại dâm quy định như thế nào ?

Trả lời :

Theo Điều 10 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm và Điều 4 Nghị định 178/2004/NĐ-CP, nội dung tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống mại dâm được quy định như sau:

Tuyên truyền, giáo dục phòng, chống mại dâm là biện pháp quan trọng để mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân và gia đình chấp hành và tích cực tham gia hoạt động phòng, chống mại dâm.

Việc tuyên truyền, giáo dục phòng, chống mại dâm phải kết hợp với tuyên truyền, giáo dục phòng, chống ma tuý và phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS.

Nội dung tuyên truyền, giáo dục phòng, chống mại dâm bao gồm:

– Tác hại nhiều mặt của tệ nạn mại dâm;

– Nguy cơ cao của bệnh dịch HIV/AIDS đối với người mại dâm, người nghiện ma túy;

– Các chủ trương, chính sách, biện pháp, những mô hình, kinh nghiệm về phòng, chống mại dâm;

– Quy định của pháp luật về phòng, chống mại dâm, ma túy và phòng, chống HIV/AIDS;

– Các biện pháp phòng, chống mại dâm, ma túy và phòng, chống HIV/AIDS;

– Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân trong phòng, chống mại dâm, ma túy và phòng, chống HIV/AIDS.

– Tuyên truyền, giáo dục truyền thống văn hoá, đạo đức, lối sống lành mạnh;

Câu hỏi số 10

Khi nhà trường tổ chức buổi sinh hoạt ngoại khóa với chủ đề pháp luật về phòng, chống mại dâm, nhiều học sinh cho rằng việc tuyên truyền, giáo dục phòng, chống mại dâm trong trường học là không đúng đối tượng. Xin cho biết nhà trường có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống mại dâm không ?

Trả lời :

Phòng, chống mại dâm là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân trong đó có nhà trường. Điều 12 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm quy định trách nhiệm của nhà trường và các cơ sở giáo dục khác trong tuyên truyền, giáo dục phòng, chống mại dâm như sau:

– Tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống mại dâm. Nội dung tuyên truyền, giáo dục phải phù hợp với từng loại hình trường học, trình độ, lứa tuổi, giới tính của học sinh, sinh viên, học viên và phong tục, tập quán của các dân tộc;

– Phối hợp với gia đình, cơ quan, tổ chức và Uỷ ban nhân dân địa phương quản lý chặt chẽ học sinh, sinh viên, học viên; tổ chức các hoạt động vui chơi lành mạnh để phòng ngừa, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm; động viên, khuyến khích học sinh, sinh viên, học viên tích cực tham gia vào các hoạt động tuyên truyền, giáo dục phòng, chống mại dâm.

Câu hỏi số 11

Xin cho biết nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống mại dâm trong nhà trường được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời:

Nội dung tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống mại dâm đối với học sinh, sinh viên, học viên trong các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông, các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề được quy định rõ tại Điều 6 Nghị định 178/2004/NĐ-CP bao gồm:

– Tác hại nhiều mặt của tệ nạn mại dâm đối với xã hội, đối với danh dự, nhân phẩm, sức khỏe con người; ảnh hưởng đến vấn đề bình đẳng giới, đến chiến lược phát triển con người ở Việt Nam;

– Các biện pháp phòng, chống tệ nạn mại dâm;

– Chính sách và pháp luật phòng, chống mại dâm;

– Các hình thức xử lý vi phạm pháp luật về mại dâm;

– Trách nhiệm của công dân trong phòng, chống tệ nạn mại dâm.

Căn cứ vào nội dung nêu trên, các trường xây dựng nội dung tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống mại dâm cụ thể cho phù hợp với loại hình trường học của mình.

Câu hỏi số 12

Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm, nhà trường có trách nhiệm phối hợp với gia đình, cơ quan, tổ chức và Uỷ ban nhân dân địa phương quản lý chặt chẽ học sinh, sinh viên, học viên. Xin cho biết nội dung phối hợp giữa nhà trường, gia đình và chính quyền địa phương trong quản lý, giáo dục học sinh, sinh viên phòng, chống mại dâm ?

Trả lời :

Theo quy định tại Điều 7 Nghị định 178/2004/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm, nội dung phối hợp giữa nhà trường, gia đình và chính quyền địa phương trong quản lý, giáo dục học sinh, sinh viên phòng, chống mại dâm bao gồm:

– Thường xuyên liên lạc, trao đổi với gia đình của học sinh, sinh viên, học viên và Uỷ ban nhân dân địa phương nơi nhà trường đóng trên địa bàn đó về công tác phòng, chống mại dâm;

– Tổ chức các cuộc toạ đàm trao đổi giữa các bên về công tác phòng, chống mại dâm, về biện pháp và các hoạt động giáo dục phòng ngừa phù hợp với lứa tuổi, giới tính, tôn giáo của học sinh, sinh viên, học viên;

– Tổ chức các hoạt động xã hội trên địa bàn với sự tham gia của học sinh, sinh viên, học viên.

Câu hỏi số 13

Nhà nước thực hiện các biện pháp nào trong phòng, chống mại dâm? Đề nghị cho biết cụ thể về biện pháp kinh tế – xã hội trong phòng, chống mại dâm?

Trả lời

Nhà nước thực hiện đồng bộ các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, kinh tế – xã hội, hành chính, hình sự và các biện pháp khác để phòng, chống mại dâm; kết hợp chặt chẽ các biện pháp phòng, chống mại dâm với phòng chống ma túy và phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS. Riêng biện pháp kinh tế – xã hội trong phòng, chống mại dâm được Điều 10 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP quy định rõ với những nội dung cụ thể như sau:

– Giải quyết việc làm, tổ chức dạy nghề, hướng nghiệp, xoá đói, giảm nghèo cho những gia đình nghèo, những người không có việc làm. Tạo điều kiện trợ giúp những phụ nữ nghèo được vay vốn, tổ chức tư vấn và hướng dẫn họ tiếp cận với các dịch vụ sản xuất, kinh doanh, sử dụng vốn làm kinh tế để tăng thu nhập theo các chương trình, dự án nhằm ngăn chặn tệ nạn mại dâm phát sinh, phát triển;

– Tổ chức chữa bệnh, giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm cho người bán dâm hoàn lương; trợ cấp khó khăn hoặc tạo điều kiện cho họ vay vốn, tư vấn, hướng dẫn phương pháp sản xuất, kinh doanh để họ có thu nhập ổn định;

– Thực hiện chính sách ưu đãi về tài chính, về thuế đối với các cơ sở chữa bệnh, dạy nghề, tạo việc làm cho người bán dâm hoặc các cơ sở kinh doanh có người bán dâm hoàn lương làm việc.

Câu hỏi số 14

Xin cho biết trách nhiệm của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn trong phòng, chống mại dâm ?

Trả lời

Theo quy định tại Điều 19 của pháp Lệnh phòng, chống mại dâm, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm:

– Tổ chức thực hiện phòng, chống mại dâm tại địa phương; lập hồ sơ, thống kê, phân loại đối tượng, rà soát cơ sở kinh doanh dịch vụ để có biện pháp phòng ngừa tệ nạn mại dâm;

– Tổ chức thực hiện việc quản lý, giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người bán dâm và những người có hành vi liên quan đến mại dâm theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

– Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống mại dâm cho nhân dân địa phương.

– Phối hợp với gia đình quản lý, giáo dục các thành viên có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm, tạo điều kiện để họ hòa nhập cộng đồng.

– Phối hợp với nhà trường trong quản lý, giáo dục học sinh, sinh viên để phòng ngừa, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm.

Câu hỏi số 15

Gần đây trong phản ánh về hoạt động mại dâm ở một số nhà hàng massase các cơ quan báo chí thường sử dụng cụm từ “cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm” Xin cho biết những cơ sở kinh doanh dịch vụ nào thuộc diện dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm ?

Trả lời :

Lợi dụng kinh doanh dịch vụ để hoạt động mai dâm là hành vi vi phạm pháp luật bị nghiêm cấm theo quy định tại Điều 4 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm.

Theo Khoản 3 Điều 3 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP, những cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm là những cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú, dịch vụ văn hoá hoặc các dịch vụ khác có sử dụng lao động là vũ nữ, tiếp viên, nhân viên phục vụ nhằm đáp ứng nhu cầu nghỉ dưỡng, ăn uống, giải trí, thư giãn, chăm sóc sức khỏe, như: khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ, nhà hàng, nhà trọ, biệt thự kinh doanh du lịch, căn hộ kinh doanh du lịch, căn hộ cho thuê, vũ trường, karaokê, xoa bóp, tắm hơi, tắm nóng lạnh, cắt tóc – gội đầu máy lạnh, cà phê đèn mờ…

Các cơ sở kinh doanh dịch vụ có trách nhiệm thực hiện đúng quy định của pháp luật về phòng, chống mại dâm trong hoạt động kinh doanh, dịch vụ của cơ sở mình.

Câu hỏi số 16

Để phòng, chống mại dâm, pháp luật quy định như thế nào về trách nhiệm của các cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm?

Trả lời:

Để phòng, chống mại dâm trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm, Điều 11 Nghị định 178/2004/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm, quy định trách nhiệm của các cơ sở này như sau:

– Chấp hành nghiêm chỉnh các tiêu chuẩn, điều kiện cấp phép, điều kiện hoạt động theo quy định của pháp luật;

– Đăng ký kinh doanh và có giấy phép kinh doanh theo quy định của pháp luật; không được sử dụng người lao động dưới 18 tuổi làm những công việc tiếp xúc trực tiếp với khách hàng có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thể lực, trí lực và nhân cách của họ; ký kết hợp đồng lao động bằng văn bản với người lao động và quản lý hoạt động của các nhân viên này theo quy định của pháp luật về hợp đồng lao động. Chủ cơ sở, người quản lý, điều hành phải kiểm tra bằng cấp, chứng chỉ chuyên môn của người lao động trước khi thực hiện hợp đồng lao động và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc người lao động không có chứng chỉ hành nghề;

– Ký cam kết với Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cơ sở hoạt động kinh doanh về việc không để tệ nạn mại dâm xảy ra ở cơ sở mình; thực hiện các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện kinh doanh và chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về phòng, chống mại dâm;

– Quản lý, kiểm tra, hướng dẫn người lao động, thực hiện đăng ký tạm trú cho những người thuộc diện phải đăng ký tạm trú với cơ quan Công an có thẩm quyền; xuất trình Giấy chứng minh nhân dân, hợp đồng lao động, giấy chứng nhận của chính quyền địa phương nơi người đó thường trú xác nhận là người của địa phương hoặc giấy báo tạm vắng để đi làm ăn sinh sống và bản cam kết không tham gia tệ nạn mại dâm, khi được cơ quan, người có thẩm quyền yêu cầu;

– Tổ chức khám sức khoẻ định kỳ hàng qúy cho người lao động và theo dõi, giám sát việc điều trị bệnh;

– Người lao động làm việc trong các cơ sở kinh doanh, dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm phải có bằng cấp, chứng chỉ chuyên môn phù hợp với công việc được giao theo quy định của pháp luật; chấp hành các quy định về quản lý hộ khẩu, khám sức khoẻ theo định kỳ và cam kết không vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm.

Câu hỏi số 17

Lê 16 tuổi, có ý định xin làm nhân viên trong nhà hàng phục vụ ăn uống, giải trí, thư giãn để kiếm thêm thu nhập nhưng lại phân vân vì có ý kiến cho rằng cơ sở kinh doanh dịch vụ đáp ứng nhu cầu ăn uống, giải trí, thư giãn, chăm sóc sức khỏe… không được sử dụng người dưới 18 tuổi làm việc. Lê muốn biết ý kiến đó có đúng không ?

Trả lời:

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 3 Nghị định 178/2004/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm, cơ sở kinh doanh dịch vụ đáp ứng nhu cầu ăn uống, giải trí, thư giãn, chăm sóc sức khỏe thuộc nhóm các cơ sở kinh doanh, dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm. Vì thế, việc sử dụng lao động trong các cơ sở này phải tuân theo các quy định của pháp luật về phòng, chống mại dâm. Một trong những quy định đó là không sử dụng người lao động dưới 18 tuổi làm những công việc tiếp xúc trực tiếp với khách hàng có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thể lực, trí lực và nhân cách của họ.

Như vậy, theo quy định của pháp luật thì các cơ sở kinh doanh, dịch vụ phục vụ nhu cầu ăn uống, giải trí, thư giãn vẫn có thể được nhận người lao động dưới 18 tuổi vào làm việc (như trường hợp của Lê 16 tuổi), tuy nhiên, không được bố trí họ làm những công việc tiếp xúc trực tiếp với khách hàng có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thể lực, trí lực và nhân cách của họ.

Câu hỏi số 18

Nghĩ rằng ông Lâm – người có nhà ngay sát bên cạnh cơ sở kinh doanh dịch vụ massage đã báo với chính quyền địa phương về hoạt động mại dâm của cơ sở mình, chủ cơ sở đã thuê những kẻ đầu gấu, bảo kê mại dâm đến đập phá đồ đạc trong nhà ông Lâm và đánh cảnh cáo ông với lý do ông đã cản trở việc làm ăn của họ. Xin hỏi Nhà nước có chế độ thế nào đối với người phát hiện, tố giác hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm? Trường hợp người phát hiện, tố giác, đấu tranh phòng, chống mại dâm bị thiệt hại tài sản thì được đền bù như thế nào?

Trả lời :

Chế độ của nhà nước đối với người phát hiện, tố giác đấu tranh phòng, chống mại dâm được quy định tại Khoản 2 Điều 21 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm:

Người phát hiện, tố giác, đấu tranh phòng, chống mại dâm được bảo vệ và giữ bí mật; trường hợp bị thiệt hại tài sản thì được đền bù; nếu bị thương tích, tổn hại về sức khoẻ hoặc bị thiệt hại về tính mạng thì được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.

Đồng thời, Khoản 1 Điều 13 Nghị định 178/2004/NĐ-CP cũng quy định trường hợp người phát hiện, tố giác, đấu tranh phòng, chống mại dâm nếu bị thiệt hại về tài sản thì được đền bù giá trị tài sản bị thiệt hại.

Kinh phí đền bù cho người bị thiệt hại về tài sản do ngân sách địa phương đảm bảo

Câu hỏi số 19

Xin cho biết chế độ, chính sách trợ cấp đối với người tham gia phòng, chống mại dâm bị thiệt hại về sức khoẻ và tính mạng được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời :

Khoản 2, 3, và 4 Điều 13 Nghị định 178/2004/NĐ-CP quy định về chế độ, chính sách đền bù, trợ cấp đối với người tham gia phòng, chống mại dâm bị thiệt hại về sức khoẻ và tính mạng như sau:

– Người phát hiện, tố giác, đấu tranh phòng, chống mại dâm nếu bị thương, bị suy giảm khả năng lao động thì được trợ cấp chi phí y tế, trợ cấp mất khả năng lao động theo mức độ suy giảm sức lao động nhưng tối đa không vượt quá 20.000.000 đồng.

– Người phát hiện, tố giác, đấu tranh phòng, chống mại dâm nếu bị chết thì gia đình hoặc người đại diện hợp pháp được nhận trợ cấp một lần bằng tiền, mức trợ cấp bao gồm các chi phí thực tế nhưng tối đa không quá 50.000.000 đồng.

– Cán bộ, công chức khi thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống mại dâm nếu bị thương thì được hưởng chính sách, chế độ tương tự như đối với thương binh; nếu hy sinh thì được xem xét để công nhận là liệt sỹ theo quy định của pháp luật.

Kinh phí trợ cấp cho người bị thiệt hại về sức khoẻ và tính mạng do ngân sách địa phương đảm bảo.

Câu hỏi số 20

Xin cho biết những cơ quan nhà nước nào có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra việc phòng, chống mại dâm tại cơ sở kinh doanh dịch vụ; kiểm tra, thanh tra hoạt động báo chí, xuất bản, dịch vụ văn hóa thông tin, sản xuất, lưu hành, sử dụng dược phẩm kích thích tình dục ?

Trả lời :

Điều 12 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP quy định các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về phòng, chống mại dâm tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ; kiểm tra, thanh tra hoạt động báo chí, xuất bản, dịch vụ văn hóa thông tin, sản xuất, lưu hành, sử dụng dược phẩm kích thích tình dục là các cơ quan thanh tra của các ngành Lao động – Thương binh và Xã hội, Văn hoá – Thông tin, Y tế, Thương mại, Du lịch hoặc các cơ quan chuyên trách về phòng, chống mại dâm của các ngành Lao động – Thương binh và Xã hội, Công an.

Tuỳ theo tình hình thực tế, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có thể thành lập các đội kiểm tra liên ngành giữa các cơ quan trên để tiến hành thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về phòng, chống tệ nạn mại dâm.

Chủ đề 2. Xử lý vi phạm hành chính về phòng, chống mại dâm (20 câu)

Câu hỏi số 21.

Pháp luật quy định thế nào về nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống mại dâm?

Trả lời:

Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính trong phòng, chống mại dâm được quy định tại Điều 14 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP ngày 15/10/2004 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm (sau đây gọi tắt là Nghị định số 178/2004/NĐ-CP), cụ thể như sau:

Mọi hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính. Cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

– Việc xử lý vi phạm tùy thuộc thẩm quyền của các ngành mà pháp luật quy định. Trường hợp các hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người thuộc các ngành khác nhau, thì quyền xử phạt thuộc Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử lý tại nơi xảy ra hành vi vi phạm.

– Việc xử lý vi phạm hành chính về hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống mại dâm do người có thẩm quyền theo các quy định của pháp luật tiến hành.

– Một hành vi vi phạm hành chính về phòng, chống mại dâm chỉ bị xử phạt một lần. Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm. Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt.

– Việc xử lý vi phạm hành chính về phòng, chống mại dâm phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng để quyết định hình thức xử phạt chính, xử phạt bổ sung và áp dụng các biện pháp xử lý thích hợp.

– Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính về hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống mại dâm phải xử phạt đúng thẩm quyền, đối với những vi phạm vượt quá thẩm quyền xử lý hoặc những vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì phải tiến hành lập biên bản và chuyển giao biên bản cùng các tài liệu có liên quan, tang vật, phương tiện vi phạm (nếu có) đến cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính hoặc cơ quan tố tụng hình sự có thẩm quyền.

Câu hỏi số 22.

Khi công an tiến hành kiểm tra hành chính nhà nghỉ X đã phát hiện tại hai phòng nghỉ số 201 và 212 có hai phụ nữ là Y và Z đang bán dâm cho khách. Trong đó, Y cũng chính là người đứng ra môi giới để Z bán dâm. Xin hỏi, việc xử lý hành chính các hành vi vi phạm đối với Y được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời:

Theo Khoản 4 Điều 14 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP quy định nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính trong phòng, chống mại dâm:

– Một hành vi vi phạm hành chính về phòng, chống mại dâm chỉ bị xử phạt một lần.

– Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm. Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt.

Như vậy, Y thực hiện hai hành vi vi phạm là bán dâm và môi giới mại dâm thì bị xử phạt cả hai hành vi vi phạm. Mức tiền phạt đối với Y là tổng mức tiền phạt của hai hành vi.

Câu hỏi số 23.

Xin hỏi thẩm quyền của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc xử lý vi phạm hành chính về phòng, chống mại dâm?

Trả lời:

Theo Điều 38 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, thẩm quyền của Ủy ban nhân dân các cấp trong xử lý vi phạm hành chính về phòng, chống mại dâm được quy định như sau:

– Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có quyền:

+ Phạt cảnh cáo;

+ Phạt tiền tối đa nhưng không vượt quá 5.000.000 đồng;

+ Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm có giá trị không vượt quá 5.000.000 đồng;

– Chủ tịch ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có quyền:

+ Phạt cảnh cáo;

+ Phạt tiền tối đa nhưng không vượt quá đến 50.000.000 đồng;

+ Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá 50.000.000 đồng ;

+ Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật trong phòng, chống mại dâm thuộc địa bàn quản lý.

– Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có quyền:

+ Phạt cảnh cáo;

+ Phạt tiền tối đa đến 40.000.000 đồng đối với cá nhân vi phạm và gấp hai lần đối với tổ chức vi phạm ;

+ Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật trong phòng, chống mại dâm thuộc địa bàn quản lý.

Câu hỏi số 24.

Do cha mẹ ly hôn, gia đình ly tán nên N chán đời, bỏ nhà đi lang thang. Qua Inetnet, N đã làm quen với M. Sau đó ít ngày, N đã cho M “nếm trái cấm”. Để thỏa mãn nhu cầu ăn chơi, N không ngại bán dâm kiếm tiền. Trong một lần N đang bán dâm tại khách sạn thì bị công an phát hiện. Xin hỏi, hành vi bán dâm như của N sẽ bị xử lý hành chính như thế nào?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 18 Nghị định 178/2004/NĐ-CP, việc xử lý vi phạm hành chính đối với người có hành vi bán dâm như N được quy định như sau:

– Người nào có hành vi bán dâm thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng.

– Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng trong trường hợp bán dâm cho nhiều người cùng một lúc.

– Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng trong trường hợp bán dâm có tính chất đồi trụy.

– Người bán dâm là người nước ngoài thì tuỳ từng trường hợp mà bị xử phạt hành chính theo quy định nêu trên và bị trục xuất.

Câu hỏi số 25.

Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, anh Q đã lên thành phố lao động tự do để kiếm tiền. Ban ngày, Q lang thang tìm việc. Buổi tối, Q thường tìm gái mại dâm giá rẻ để giải quyết nhu cầu. Trong một lần mua dâm, Q đã bị công an phát hiện và bị xử phạt hành chính là 1.000.000 đồng. Xin hỏi, mức xử phạt đối với Q có đúng quy định không?

Trả lời:

Việc xử lý vi phạm hành chính đối với người mua dâm được quy định tại Điều 17 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP như sau:

Người nào có hành vi mua dâm thì bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng.

– Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng trong trường hợp mua dâm nhiều người cùng một lúc.

Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:

+ Mua dâm có tính chất đồi trụy;

+ Lôi kéo, ép buộc người khác cùng mua dâm.

Như vậy, mức xử phạt đối với Q hoàn toàn đúng quy định của pháp luật.

Câu hỏi số 26.

Pháp luật quy định như thế nào về việc xử lý đối với người có hành vi vi phạm hành chính khác liên quan đến mại dâm?

Trả lời;

Các hành vi liên quan đến hoạt động mại dâm gồm:

+ Lợi dụng uy tín, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bảo vệ, duy trì hoạt động mại dâm;

+ Đe dọa dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mại dâm;

+ Môi giới mại dâm nhưng không thường xuyên;

+ Góp vốn để sử dụng vào mục đích mại dâm.

Việc xử lý đối với người có hành vi vi phạm hành chính liên quan đến mại dâm được quy định tại Điều 19 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP như sau:

Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng thuộc một trong các trường hợp sau mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự:

+ Lợi dụng uy tín để bảo vệ, duy trì hoạt động mại dâm;

+ Đe dọa dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mại dâm;

+ Môi giới mại dâm nhưng không thường xuyên;

+ Góp vốn để sử dụng vào mục đích hoạt động mại dâm.

Người có hành vi góp vốn để sử dụng vào mục đích hoạt động mại dâm thì ngoài việc bị xử phạt tiền như nêu trên còn bị tịch thu số vốn đã góp để sử dụng vào mục đích hoạt động mại dâm.

Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng thuộc một trong các trường hợp sau mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự:

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bảo vệ, duy trì hoạt động mại dâm;

+ Dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mại dâm.

Câu hỏi số 27.

Nhà hàng karaoke S mới mở cửa được gần 1 năm nhưng đã rất nổi tiếng và đông khách vì ngoài việc phục vụ khách đến ca hát, chủ nhà hàng còn bố trí các tiếp viên phục vụ khách hàng từ A đến Z, thậm chí sẵn sàng “đi tới bến” khi khách có nhu cầu. Xin hỏi, việc nhà hàng S lợi dụng kinh doanh, dịch vụ để hoạt động mại dâm sẽ bị xử lý như thế nào?

Trả lời;

Theo quy định tại Điều 25 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm, đối với tổ chức, cá nhân lợi dụng kinh doanh dịch vụ để hoạt động mại dâm bị xử lý như sau:

Cơ sở kinh doanh dịch vụ lợi dụng hoạt động kinh doanh dịch vụ để hoạt động mại dâm thì bị phạt tiền và tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị tịch thu tang vật, phương tiện có liên quan trực tiếp đến hoạt động mại dâm, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề.

Việc xử lý vi phạm hành chính đối với tổ chức, cá nhân lợi dụng kinh doanh, dịch vụ để hoạt động mại dâm được quy định tại Khoản 1 Điều 20 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP như sau:

– Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự:

+ Sử dụng việc mua dâm, bán dâm và các hoạt động tình dục khác làm phương thức kinh doanh;

+ Dùng các thủ đoạn khống chế, đe dọa người mua dâm, bán dâm để cưỡng đoạt tài sản.

– Ngoài việc bị phạt tiền, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm còn bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề.

Nhà hàng S đã sử dụng việc mua dâm, bán dâm và các hoạt động tình dục khác làm phương thức kinh doanh. Căn cứ quy định trên, nhà hàng S sẽ bị xử lý như sau:

+ Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng;

+ Tước quyền sử dụng giấy phép hành nghề.

Câu hỏi số 28.

Chị X mở một cửa hàng Spa chăm sóc sức khỏe – do chị đứng tên chủ cơ sở, trong đó có kinh doanh dịch vụ mát xa hơi cho cả nam và nữ. Tuy nhiên, do chị X không quản lý chặt chẽ nên đã để một số nhân viên mát xa mồi chài khách mua bán dâm ngay tại chỗ làm việc. Vụ việc xảy ra được gần hai tháng thì bị công an phát hiện. Xin hỏi, chị X – chủ cửa hàng phải chịu trách nhiệm như thế nào trước pháp luật?

Trả lời:

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 25 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm thì người đứng đầu cơ sở kinh doanh dịch vụ do thiếu tinh thần trách nhiệm để hoạt động mại dâm xảy ra ở cơ sở do mình quản lý thì bị xử phạt vi phạm hành chính; trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Chị X do thiếu tinh thần trách nhiệm để hoạt động mại dâm xảy ra ở cơ sở do mình quản lý thì sẽ bị xử phạt hành chính (trường hợp này chưa có hậu quả nghiêm trọng).

Mức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi này theo quy định tại Khoản 2 Điều 20 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP là từ 10.000.000 đến 15.000.000 đồng.

Ngoài việc bị phạt tiền, các cá nhân có hành vi vi phạm còn bị tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề.

Câu hỏi số 29.

Tôi được biết, Chính phủ đã ban hành văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội, trong đó có xử phạt hành vi liên quan đến hoạt động mại dâm. Xin cho biết tên văn bản, mức xử phạt đối với các hành vi liên quan đến hoạt động mại dâm được quy định trong văn bản?

Trả lời:

Ngày 12/7/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73//2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội, trong đó có Điều 22 quy định về xử phạt hành chính đối với hành vi mại dâm và liên quan đến hoạt động mại dâm. Nội dung Điều 22 quy định như sau:

Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với hành vi lạm dụng tình dục.

Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với hành vi cung cấp địa điểm cho hoạt động mại dâm nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự:

+ Dẫn dắt hoạt động mại dâm;

+ Che giấu, bảo kê cho các hành vi mua dâm, bán dâm.

– Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự:

+ Tái phạm việc mua dâm, bán dâm hoặc che giấu, bảo kê cho các hành vi mua dâm, bán dâm;

+ Dùng các thủ đoạn khống chế, đe dọa người mua dâm, bán dâm để đòi tiền, cưỡng đoạt tài sản.

Ngoài ra, các hành vi vi phạm nêu trên còn bị xử phạt bổ sung là tịch thu toàn bộ số tiền do vi phạm mà có.

– Các hành vi vi phạm khác về phòng, chống mại dâm thì bị xử lý theo Nghị định của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến quy định xử phạt vi phạm hành chính về phòng, chống mại dâm.

Câu hỏi số 30.

Mặc dù đã bị xử phạt hành chính một lần về hành vi bán dâm cho khách song do bản chất đua đòi, muốn có nhiều tiền để ăn chơi nên K vẫn tiếp tục bán dâm. Khi K và người nước ngoài đang thực hiện hành vi mua bán dâm tại một khách sạn thì bị công an phát hiện và lập biên bản xử lý. Xin hỏi, mức xử phạt đối với K được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời:

Theo Khoản 4 Điều 22 Nghị định Nghị định số 73//2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội, việc xử phạt đối với hành vi mại dâm và liên quan đến hoạt động mại dâm quy định như sau:

– Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự:

+ Tái phạm việc mua dâm, bán dâm hoặc che giấu, bảo kê cho các hành vi mua dâm, bán dâm;

+ Dùng các thủ đoạn khống chế, đe dọa người mua dâm, bán dâm để đòi tiền, cưỡng đoạt tài sản.

K đã bị xử phạt vi phạm hành chính một lần về hành vi bán dâm nên hành vi bán dâm lần này của K được coi là tái phạm, vì vậy, K sẽ bị xử phạt theo quy định tại Điểm a Khoản 4 Điều 22 Nghị định số 73/2010/NĐ-CP như đã nêu ở trên với mức phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Câu hỏi số 31.

Bà X có một dãy nhà trọ cho thuê ở với giá bình dân. Đầu năm, có hai phụ nữ tầm 25, 30 tuổi tự xưng là hai chị em ruột đến thuê hai phòng trọ. Cả hai đều không có nghề nghiệp gì ổn định. Ban ngày họ ngủ còn ban đêm đi bán dâm. Nhiều hôm hai người còn đưa khách về phòng trọ để mua bán dâm tại chỗ. Dần dần, Bà X cũng biết được việc làm của hai người đó. Song bà lờ đi, coi như không hay biết gì. Một lần công an phường bất ngờ kiểm tra hành chính đã phát hiện một trong hai phụ nữ trên đang bán dâm tại nhà trọ của bà X. Xin hỏi, bà X – chủ nhà trọ – có bị xử phạt hay không?

Trả lời:

Khoản 2, Khoản 3 Điều 22 Nghị định số 73/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội quy định:

– Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với hành vi cung cấp địa điểm cho hoạt động mại dâm nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

– Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự:

+ Dẫn dắt hoạt động mại dâm;

+ Che giấu, bảo kê cho các hành vi mua dâm, bán dâm.

Như vậy, bà X biết việc những người thuê nhà của mình có hành vi bán dâm tại nơi ở trọ nhưng đã lờ đi không nhắc nhở, không thông báo cho cơ quan có thẩm quyền đã vi phạm quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 22 Nghị định số 73/2010/NĐ-CP về che dấu cho các hành vi mua dâm, bán dâm và sẽ bị xử phạt với mức tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.

Câu hỏi số 32.

Qua báo chí, tôi thấy có thông tin ông M, một cán bộ của một Sở T có hành vi mua dâm bị phát hiện. Tôi muốn hỏi, việc xử lý đối với cán bộ hay công chức vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm có khác với người dân không? Pháp luật quy định như thế nào về việc xử lý đối với cán bộ, công chức vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm?

Trả lời:

Việc xử lý đối với cán bộ, công chức, người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm được quy định tại Điều 27 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm như sau:

– Người có hành vi vi phạm theo quy định của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm (mua dâm; bán dâm; có hành vi liên quan đến mại dâm; lợi dụng kinh doanh dịch vụ để hoạt động mại dâm; phổ biến, tàng trữ, lưu hành các sản phẩm có nội dung và hình thức khiêu dâm…) là cán bộ, công chức hoặc người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân thì ngoài việc bị xử lý theo quy định chung còn bị thông báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý người đó để giáo dục và xử lý kỷ luật.

– Cán bộ, công chức hoặc người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm thì trong thời gian bị xử lý kỷ luật không được đề cử, ứng cử vào các cơ quan dân cử, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội; không được bổ nhiệm hoặc bổ nhiệm lại, bổ nhiệm vào các chức vụ tương đương hoặc cao hơn trong các cơ quan nhà nước hoặc trong lực lượng vũ trang nhân dân.

Quy định chi tiết hơn về nội dung này, Điều 22 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP chỉ rõ:

Cán bộ, công chức, viên chức nhà nước hoặc người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân có hành vi vi phạm theo quy định của Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm thì ngoài việc bị phạt tiền như quy định còn bị thông báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý người đó để xử lý kỷ luật.

Các cơ quan chức năng khi phát hiện người có hành vi vi phạm là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước hoặc người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân thì phải thông báo ngay cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý người đó; trường hợp người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có hành vi vi phạm thì phải thông báo cho người đứng đầu cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp để xem xét và quyết định hình thức kỷ luật.

Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của người có hành vi vi phạm phải thực hiện việc xử lý kỷ luật đối với người vi phạm và tổ chức quản lý, giáo dục, phòng ngừa, ngăn chặn người đó tái phạm.

Người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân có hành vi vi phạm thì bị xử lý theo quy định của pháp luật và Điều lệnh kỷ luật của lực lượng vũ trang.

Câu hỏi số 33.

Gần đây, anh T – công an khu vực H đã nhận được nhiều tin quần chúng tố giác nhà hàng karaoke M nằm trên địa bàn mình quản lý có nhiều hoạt động mờ ám. Tiếp viên nhà hàng đã công khai mồi chài khách bằng các dịch vụ “sung sướng” và có hoạt động mua bán dâm song anh T lại dung túng, bao che, không xử lý. Khi quần chúng trên địa bàn phản ánh lên cơ quan công an cấp trên thì mới dẹp được cửa hàng karaoke này. Xin hỏi pháp luật xử lý thế nào đối với anh T?

Trả lời:

Anh T là công an khu vực, là người có nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh phòng, chống mại dâm trong phạm vi địa bàn quản lý, đã có hành vi dung túng, bao che, không xử lý kịp thời đối với hoạt động mại dâm xảy ra trên địa bàn nên anh T có thể bị xử lý theo Khoản 1 Điều 23 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP.

Điều 23 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP quy định việc xử lý đối với người có hành vi vi phạm pháp luật khi thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống mại dâm như sau: Người có nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh phòng, chống mại dâm mà có hành vi bảo kê mại dâm, dung túng, bao che hoặc không xử lý kịp thời để cho hoạt động mại dâm xảy ra trên địa bàn quản lý mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm phải bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. Người bị xử lý kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch hoặc cách chức phải bị chuyển làm công tác khác.

Câu hỏi số 34.

Xin hỏi, pháp luật quy định như thế nào về việc xử lý đối với người có hành vi bao che hoặc không kịp thời xử lý kỷ luật người vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm?

Trả lời:

Việc xử lý đối với người có hành vi bao che hoặc không kịp thời xử lý kỷ luật người vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm được quy định rõ tại Điều 24 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP như sau:

Người có chức vụ, quyền hạn có hành vi bao che hoặc không kịp thời xử lý kỷ luật người thuộc quyền quản lý trực tiếp của mình có hành vi mại dâm, liên quan đến hoạt động mại dâm mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm phải bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.

Người thuộc lực lượng vũ trang có hành vi vi phạm nêu trên thì bị xử lý theo quy định của pháp luật và Điều lệnh kỷ luật của lực lượng vũ trang.

Câu hỏi số 35.

Xin hỏi hành vi nhân bản phim có nội dung đồi trụy, khiêu dâm, kích động bạo lực bị xử phạt hành chính như thế nào?

Trả lời:

Phim có nội dung đồi trụy là phim có sự thể hiện bằng hành động, bằng hình ảnh, bằng âm thanh về lối sống ăn chơi, tiêu khiển thấp hèn, hư hỏng đến mức tồi tệ về đạo đức, trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc.

Hành vi nhân bản phim có nội dung đồi trụy, khiêu dâm, kích động bạo lực sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Khoản 6 Điều 8 Nghị định số 75/2010/NĐ-CP của Chính Phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, cụ thể như sau:

– Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

+ Nhân bản phim đã có quyết định thu hồi, tịch thu, tiêu huỷ hoặc cấm phổ biến;

+ Nhân bản phim có nội dung đồi trụy, khiêu dâm, kích động bạo lực;

+ Tàng trữ nhằm lưu hành phim có nội dung cấm phổ biến với số lượng trên 100 phim trở lên;

– Ngoài ra, các hành vi vi phạm này còn chịu hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật vi phạm và tịch thu phương tiện vi phạm.

Câu hỏi số 36.

Đề nghị cho biết quy định của pháp luật về mức xử phạt như thế nào đối với các hành vi phổ biến, tàng trữ băng, đĩa ca nhạc, sân khấu có nội dung phản động, đồi trụy hoặc nội dung khiêu dâm, kích động bạo lực tại nơi công cộng?

Trả lời:

Mức xử phạt đối với các hành vi phổ biến, tàng trữ băng, đĩa ca nhạc, sân khấu có nội dung phản động, đồi trụy hoặc nội dung khiêu dâm, kích động bạo lực tại nơi công cộng được quy định tại Khoản 3 Điều 15 Nghị định số 75/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa như sau:

– Phạt tiền từ trên 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

+ Tàng trữ, phổ biến trái phép băng, đĩa ca nhạc, sân khấu thuộc loại cấm phổ biến với số lượng dưới 20 bản;

+ Tàng trữ, phổ biến trái phép băng, đĩa ca nhạc, sân khấu thuộc loại nhân bản lậu với số lượng từ 50 bản đến dưới 100 bản;

+ Phổ biến băng, đĩa ca nhạc, sân khấu có nội dung khiêu dâm, kích động bạo lực tại nơi công cộng;

+ Phát hành băng, đĩa ca nhạc, sân khấu mà không dán nhãn kiểm soát hoặc dán nhãn không đúng nội dung băng, đĩa được phép phát hành với số lượng dưới 300 bản.

– Phạt tiền từ trên 5.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

+ Tàng trữ băng, đĩa ca nhạc, sân khấu thuộc loại cấm phổ biến với số lượng từ 20 bản đến dưới 100 bản;

+ Tàng trữ trái phép băng, đĩa ca nhạc, sân khấu thuộc loại nhân bản lậu với số lượng từ 100 bản đến dưới 300 bản;

+ Tàng trữ, phổ biến băng, đĩa ca nhạc, sân khấu có nội dung phản động, đồi trụy;

+ Phát hành băng, đĩa ca nhạc sân khấu mà không dán nhãn kiểm soát hoặc dán nhãn không đúng nội dung băng, đĩa được phép phát hành với số lượng từ 300 bản trở lên;

+ Tàng trữ trái phép băng, đĩa ca nhạc, sân khấu thuộc loại chưa được phép lưu hành với số lượng từ 50 bản đến dưới 300 bản.

– Ngoài ra, việc phạt tiền những cá nhân, tổ chức có hành vi này còn bị xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật vi phạm.

Câu hỏi số 37.

Anh V là chủ một cửa hàng Internet ở gần một trường phổ thông trung học để thu hút nhiều học sinh đến chơi điện tử nhằm tăng doanh thu cho cửa hàng. Anh V đã cài đặt nhiều trò chơi điện tử có nội dung khiêu dâm, kích động bạo lực và có nội dung độc hại khác đối với lứa tuổi học sinh. Xin hỏi hành vi của anh V khi bị phát hiện sẽ bị xử lý như thế nào?

Trả lời:

Theo Khoản 1 Điều 21 Nghị định số 75/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, các hành vi vi phạm các quy định về sản xuất, lưu hành băng, đĩa trò chơi điện tử sẽ bị xử lý với các hình thức cụ thể như sau:

– Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

+ Tổ chức trò chơi điện tử có nội dung khiêu dâm, kích động bạo lực hoặc có nội dung độc hại khác;

+ Bán, cho thuê băng, đĩa trò chơi điện tử có nội dung khiêu dâm, kích động bạo lực hoặc có nội dung độc hại khác;

+ Nhập khẩu máy, băng, đĩa trò chơi điện tử có nội dung kích động bạo lực, phản động đồi trụy hoặc các nội dung độc hại khác.

– Ngoài ra, hành vi vi phạm này còn bị xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật vi phạm.

Chiếu theo quy định trên, V có hành vi tổ chức trò chơi điện tử có nội dung khiêu dâm, kích động bạo lực hoặc có nội dung độc hại khác, vì thế, khi bị phát hiện V có thể bị xử phạt với mức tiền phạt từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng và áp dụng hình phạt bổ sung là tịch thu tang vật vi phạm.

Câu hỏi số 38.

T và H vừa tới cổng trường thì gặp một người đàn ông lạ mặt mang theo nhiều băng đĩa hình mời chào hai bạn mua với lời quảng cáo: đây là các băng, đĩa hình trò chơi điện tử có nội dung rất hay, thú vị với học sinh mà giá bán lại rẻ. H tò mò nên đã mua về xem. H thấy các đĩa hình có nội dung phản động, đồi trụy nên kể chuyện với T. T khuyên H lần sau không nên mua các băng đĩa có nội dung này và cho rằng hành vi của người đàn ông đó là vi phạm pháp luật. Xin hỏi ý kiến của T có đúng hay không?

Trả lời:

Ý kiến của T hoàn toàn chính xác.

Hành vi của người đàn ông bán băng đĩa đã vi phạm các quy định về sản xuất, lưu hành băng, đĩa trò chơi điện tử là bán, cho thuê băng, đĩa trò chơi điện tử có nội dung phản động, đồi trụy. Theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 21 Nghị định số 75/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, mức phạt đối với hành vi này là từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Ngoài ra, người có hành vi vi phạm còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật vi phạm.

Câu hỏi số 39.

Do giỏi công nghệ thông tin C đã lên mạng mày mò tìm kiếm nhiều tranh, ảnh có nội dung không lành mạnh, trong đó có một số tranh, ảnh có nội dung đồi trụy, khiêu dâm rồi cho mấy bạn trai cùng lớp xem và bình phẩm. Thấy có nhiều bạn ở các lớp khác cũng tò mò muốn xem, C có ý định in ra và bán các tranh, ảnh đó để kiếm tiền. Biết ý định của C, B đã ngăn lại vì theo B, đó là việc làm trái pháp luật. Xin hỏi, ý kiến của B có chính xác hay không?

Trả lời:

Theo quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 22 Nghị định số 75/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, hành vi bán tranh, ảnh có nội dung đồi trụy, khiêu dâm là hành vi vi phạm các quy định cấm đối với hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng, bị xử phạt với mức tiền từ 1.000.000 đến 3.000.000 đồng.

Ngoài ra, người có hành vi vi phạm này còn bị xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật vi phạm.

Vì vậy, ý kiến của B hoàn toàn đúng với các quy định pháp luật.

Câu hỏi số 40.

Đề nghị cho biết mức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm các quy định cấm đối với hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hóa tại cơ sở lưu trú, nhà hàng ăn uống, dịch vụ công cộng?

Trả lời:

Điều 23 Nghị định số 75/2010/NĐ-CP quy định mức xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm các quy định cấm đối với hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hóa tại cơ sở lưu trú, nhà hàng ăn uống, dịch vụ công cộng như sau:

– Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi treo, trưng bày tranh, ảnh có nội dung đồi truỵ, khiêu dâm, kích động bạo lực tại cơ sở lưu trú, nhà hàng ăn uống, nơi công cộng khác.

– Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi dùng các phương thức phục vụ có tính chất khiêu dâm tại cơ sở lưu trú, nhà hàng ăn uống, giải khát, cơ sở kinh doanh dịch vụ khác.

Ngoài ra, các hành vi vi phạm nêu trên còn bị hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật vi phạm.

Chủ đề 3. Một số tội phạm liên quan đến mại dâm (10 câu) và Chủ đề 4. Một số quy định pháp luật khác có liên quan đến phòng, chống mại dâm (10 câu)

Chủ đề 3. Một số tội phạm liên quan đến mại dâm (10 câu)

Câu hỏi số 41.

Bà Hằng tuyển Lam (24 tuổi) vào làm nhân viên tại nhà nghỉ của mình để phục vụ và vừa bán dâm khi khách có nhu cầu. Tuy nhiên, được một thời gian ngắn, cơ quan công an phát hiện và bắt quả tang hành vi bán dâm của Lam ngay tại nhà nghỉ. Xin hỏi: bà Hằng đã phạm tội gì và bà bị xử phạt như thế nào?

Trả lời:

Trong trường hợp này, bà Hằng đã sử dụng nhà nghỉ của mình để làm địa điểm bán dâm. Hành vi của bà đã phạm vào tội Chứa mại dâm quy định tại Điều 254 Bộ luật Hình sự.

Chứa mại dâm là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm. (Khoản 4 Điều 3 Pháp lệnh phòng chống mại dâm)

Theo Điều 254 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 thì hành vi chứa mại dâm trong trường hợp không có các tình tiết tăng nặng thì có thể bị phạt từ một năm đến bảy năm tù.

Câu hỏi số 42.

Khi kiểm tra quán café do ông Trung quản lý, cơ quan công an phát hiện được 3 đôi nam nữ đang mua, bán dâm trong những dãy lán phía sau quán. Xin hỏi ông Trung có thể phải chịu mức hình phạt như thế nào?

Trả lời:

Vì ông Trung thực hiện hành vi cung cấp địa điểm để thực hiện hoạt động mua, bán dâm nên ông đã phạm vào tội Chứa mại dâm được quy định tại Điều 254 Bộ luật Hình sự năm 199 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Bên cạnh đó, do khi kiểm tra, cơ quan công an phát hiện được 3 đôi nam nữ đang mua bán dâm cùng một thời điểm nên hành vi phạm tội của ông Trung có thêm tình tiết tăng nặng: “phạm tội nhiều lần”.

Theo mục 4 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/05/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự thì tình tiết “phạm tội nhiều lần” được áp dụng đối với người chứa mại dâm trong các trường hợp sau:

– Chứa mại dâm (không phân biệt tại một địa điểm hay tại các địa điểm khác nhau) một đôi hoặc nhiều đôi mua bán dâm khác nhau từ hai lần trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau (không phân biệt thời gian dài hay ngắn);

– Chứa mại dâm hai đôi mua bán dâm trở lên độc lập với nhau trong cùng một khoảng thời gian;

– Chứa mại dâm một người mua bán dâm với hai người trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau.

Mặt khác, pháp luật cũng quy định không coi là phạm tội nhiều lần trong các trường hợp sau đây:

– Chứa mại dâm một đôi mua bán dâm trong một khoảng thời gian liên tục;

– Chứa mại dâm nhiều người (một nhóm) cùng đến mua bán dâm, nhưng chỉ một người trong số họ hoặc một số người trong số họ hoặc tất cả họ cùng nhau thoả thuận đứng ra giao dịch với người chứa mại dâm để trả tiền thuê địa điểm, phương tiện một lần và việc mua bán dâm diễn ra trong cùng một khoảng thời gian.

Về mức hình phạt có thể áp dụng đối với ông Trung, theo Điểm c Khoản 2 Điều 254 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), ông có thể bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. Ngoài ra, ông có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế từ một năm đến năm năm.

Câu hỏi số 43.

Huy tuyển một số người phụ nữ ở quê lên thành phố làm việc trong quán karaoke của mình. Lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của họ, hắn ép những người phụ nữ này phải bán dâm khi khách có yêu cầu. Những ai không chịu bán dâm liền bị hắn đánh đập hành hung thậm tệ. Xin hỏi: với hành vi ép buộc người khác bán dâm, Huy có thể phải chịu mức hình phạt như thế nào?

Trả lời:

Trước hết, Huy đã phạm tội chứa mại dâm theo điều 254 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) thể hiện bằng việc y đã cung cấp địa điểm để hoạt động mại dâm được tiến hành. Tuy nhiên, nghiêm trọng hơn, Huy đã có hành vi cưỡng bức mại dâm thể hiện bằng việc ép buộc, đánh đập người khác khiến họ phải bán dâm.

Cưỡng bức bán dâm là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn buộc người khác phải thực hiện việc bán dâm (Khoản 6 Điều 3 Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm)

Theo quy định của Khoản 2 Điều 254 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì cưỡng bức mại dâm là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người tội chứa mại dâm. Người chứa mại dâm mà thực hiện hành vi cưỡng bức mại dâm thì có thể phải chịu với mức phạt tù từ 05 năm đến 15 năm.

Câu hỏi số 44.

Hành vi môi giới mại dâm có thể bị xử lý trách nhiệm hình sự như thế nào?

Trả lời:

Môi giới mại dâm là hành vi của người làm trung gian để tổ chức, móc nối, dụ dỗ, dẫn dắt các bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm.

Theo Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) hành vi môi giới mại dâm có thể bị xử lý hình sự như sau:

“1. Người nào dụ dỗ hoặc dẫn dắt người mại dâm thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

đ) Tái phạm nguy hiểm;

Câu hỏi số 45.

Tiến là “cò” chuyên môi giới mại dâm và coi đây như một nghề kiếm sống. Tiến đã thực hiện hành vi môi giới mại dâm rất nhiều lần. Xin hỏi, với hành vi này thì Tiến có thể phải chịu trách nhiệm hình sự như thế nào?

Trả lời:

Theo quy định tại mục 5 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TANDTC ban hành ngày 12/5/2006 thì tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” có đầy đủ các điều kiện sau đây:

– Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xoá án tích;

– Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.

Đối với trường hợp của Tiến, vì y đã thực hiện môi giới mại dâm rất nhiều lần và lấy việc phạm tội là nguồn sống chính nên Tiến được coi là phạm tôi môi giới mại dâm có tính chất chuyên nghiệp.

Theo Điểm c Khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự năm 199 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì người môi giới mại dâm có tính chất chuyên nghiệp có thể bị phạt tù từ ba năm đến mười năm; ngoài ra, có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng.

Câu hỏi số 46.

Anh Vinh nhờ bà Nhung tìm cho một bé gái tầm khoảng 14, 15 tuổi để mua dâm. Bà Nhung giới thiệu cho anh Vinh cháu Tâm mới 14 tuổi. Tuy nhiên, khi đang thực hiện hành vi mua dâm thì anh Vinh bị cơ quan công an phát hiện. Xin hỏi anh Vinh và bà Nhung sẽ bị xử lý trách nhiệm hình sự như thế nào?

Trả lời:

* Đối với trường hợp của bà Nhung:

Điểm a Khoản 3 Điều 255 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009) quy định rằng người môi giới mại dâm đối với trẻ em từ 13 đến dưới 16 tuổi có thể phải chịu mức phạt tù từ bảy năm đến mười năm lăm; ngoài ra, còn có thể phải chịu hình phạt tiền bổ sung từ 01 triệu đồng đến 10 triệu đồng. Như vậy, do bà Nhung đã môi giới mại dâm đối với cháu Tâm 14 tuổi nên bà có thể phải chịu mức phạt trên

* Đối với anh Vinh:

Theo quy định tại Điều 256 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), thì hành vi mua dâm người chưa thành niên dưới 18 tuổi sẽ bị xử lý trách nhiệm hình sự. Tùy theo độ tuổi của người bán dâm mà người mua dâm sẽ bị xử lý trách nhiệm hình sự theo các mức độ khác nhau:

– Người mua dâm người chưa thành niên từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm;

– Người mua dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ ba năm đến tám năm;

– Người mua dâm nhiều lần đối với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến mười triệu đồng.

Trong trường hợp của anh Vinh, anh đã thực hiện hành vi mua dâm một lần đối với cháu Nhung mới 14 tuổi nên có thể bị phạt tù từ ba năm đến tám năm. Ngoài ra, anh có thể bị phạt tiền theo quy định nêu trên của pháp luật.

Câu hỏi số 47.

Xin hỏi, trong trường hợp mua dâm người chưa thành niên mà người phạm tội gây tổn hại đến sức khỏe của người chưa thành niên thì sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự như thế nào?

Trả lời:

Trường hợp người phạm tội mua dâm người chưa thành niên mà gây tổn hại đến sức khỏe của người chưa thành niên thì sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo mức độ thương tật do họ gây ra.

Điều 256 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định:

– Người mua dâm người chưa thành niên, gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% thì sẽ bị phạt tù từ ba năm đến tám năm

– Người mua dâm người chưa thành niên, gây tổn hại cho sức khỏe cho nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

– Người biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội mua dâm người chưa thành niên thì sẽ bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

Câu hỏi số 48.

Thủy là gái mại dâm bị nhiễm HIV. Cô biết bản thân mình bị nhiễm HIV nhưng vì hận đời nên vẫn cố tình bán dâm cho khách mà không sử dụng biện pháp bảo vệ an toàn dẫn đến nhiều người khác cũng bị nhiễm HIV. Hành vi của Thủy có thể phải chịu trách nhiệm hình sự như thế nào?

Trả lời:

Hành vi của Thủy đã phạm vào Tội lây truyền HIV cho người khác được quy định tại Điều 117 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009). Theo nội dung của điều luật thì “Người nào biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền bệnh cho người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm.”

Tuy nhiên, Điểm a Khoản 2 của Điều luật trên, trường hợp lây nhiễm HIV cho nhiều người thì có thể bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm.

Đối với trường hợp của Thủy, do cô đã cố ý làm lây nhiễm HIV cho nhiều người khác nên có thể bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm.

Câu hỏi số 49.

Anh Nam đã bị xử phạt hành chính về hành vi bán băng đĩa phim có nội dung khiêu dâm. Tuy nhiên, ngay sau đó, anh ta vẫn tiếp tục thực hiện hành vi này và bị cơ quan chức năng phát hiện. Xin hỏi, anh Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không?

Trả lời:

Hành vi truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy có thể gây ra nhiều hậu quả xấu cho nền văn hóa và đời sống tinh thân của nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực trong xã hội mà tiêu biểu là mại dâm gia tăng.

Theo quy định của Điều 253 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì hành vi truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy bao gồm các hành vi làm ra, sao chép, lưu hành, vận chuyển, mua bán, tàng trữ nhằm phổ biến sách, báo, tranh, ảnh, phim, nhạc hoặc những vật phẩm khác có tính chất đồi trụy, cũng như có hành vi khác truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy (ví dụ dịch văn hóa phẩm đồi trụy từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt..)

Hành vi truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự:

– Vật phạm pháp có số lượng lớn;

– Phổ biến cho nhiều người

– Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Người vi phạm có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

Đối với trường hợp của anh Nam, vì anh đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy nhưng vẫn tiếp tục vi phạm nên anh có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải đối diện với mức phạt trên.

Câu hỏi số 50.

X mở quán sửa điện thoại di động ở gần trường cấp 3. Khi sửa điện thoại, X đã tải các phim, ảnh đồi trụy vào máy điện thoại của các em học sinh. Một lần, khi đang tải các phim ảnh đó cho một nam học sinh lớp 10, X bị cơ quan công an bắt quả tang. Xin hỏi, X có thể phải chịu mức hình phạt như thế nào?

Trả lời:

Khoản 2 Điều 253 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định:

Người phạm tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

– Có tổ chức;

– Vật phạm pháp có số lượng rất lớn;

– Đối với người chưa thành niên;

– Gây hậu quả nghiêm trọng;

– Tái phạm nguy hiểm;

Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.

Đối với trường hợp của X, vì đã có hành vi truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy cho người chưa thành niên nên có thể bị phạt tù từ ba năm đến mười năm và có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.

Chủ đề 4. Một số quy định pháp luật khác có liên quan đến phòng, chống mại dâm (10 câu)

Câu hỏi số 51.

Pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về quyền được sống hòa nhập của người bị nhiễm HIV/AIDS và trách nhiệm của những người xung quanh trong việc bảo đảm quyền này?

Trả lời:

Theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 4 Luật phòng chống nhiễm vi rút nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người, thì một trong những quyền quan trọng hàng đầu của người bị nhiễm HIV/AIDS là quyền được “sống hòa nhập với cộng đồng.”

Để bảo đảm quyền được sống hòa nhập với cộng đồng của người bị nhiễm HIV, biện pháp quan trọng nhất là chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người bị nhiễm HIV.

Kỳ thị người nhiễm HIV là thái độ khinh thường hay thiếu tôn trọng người khác vì biết hoặc nghi ngờ người đó nhiễm HIV hoặc vì người đó có quan hệ gần gũi với người nhiễm HIV hoặc bị nghi ngờ nhiễm HIV.

Phân biệt đối xử với người nhiễm HIV là hành vi xa lánh, từ chối, tách biệt, ngược đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khác vì biết hoặc nghi ngờ người đó nhiễm HIV hoặc vì người đó có quan hệ gần gũi với người nhiễm HIV hoặc bị nghi ngờ nhiễm HIV.

Khoản 4 Điều 3 của Luật đã quy định một nguyên tắc cơ bản trong phòng, chống nhiễm HIV/AIDS đó là: Không kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV và thành viên gia đình họ; tạo điều kiện để người nhiễm HIV và thành viên gia đình họ tham gia các hoạt động xã hội, đặc biệt là các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS.

Đồng thời, theo Khoản 3 Điều 8 của Luật thì nhà nước Việt Nam nghiêm cấm hành vi “kỳ thị, phân biệt đối xử với người bị nhiễm HIV/AIDS”

Câu hỏi số 52.

Pháp luật quy định như thế nào về quyền được điều trị và chăm sóc sức khỏe của người bị nhiễm HIV/AIDS?

Trả lời:

Theo Khoản 1 Điều 4 của Luật hòng, chống nhiễm virut gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người thì người bị nhiễm HIV/AIDS có quyền được điều trị và chăm sóc sức khỏe.

Cụ thể, theo các quy định khác của Luật này, người nhiễm HIV/AIDS được điều trị và chăm sóc sức khỏe như sau:

* Người bị nhiễm HIV/AIDS được khám bệnh, chữa bệnh, điều trị tại các cơ sở y tế. Người bệnh sẽ được thầy thuốc và nhân viên y tế tư vấn về các biện pháp tự giữ gìn sức khỏe và phòng chống lây nhiễm HIV cho người khác. Người bị nhiễm HIV/AIDS mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội hoặc các bệnh khác có liên quan được điều trị và đối xử bình đẳng như những người bệnh khác.

* Tiếp cận thuốc kháng HIV: người bị nhiễm HIV được tạo điều kiện tiếp cận thuốc kháng HIV thông qua các chương trình, dự án phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội. Thuốc kháng HIV do ngân sách nhà nước chi trả, thuốc do tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tài trợ được cấp miễn phí cho người nhiễm HIV tại các cơ sở điều trị HIV/AIDS theo thứ tự ưu tiên sau đây:

– Trẻ em từ đủ 6 tuổi đến dưới 16 tuổi nhiễm HIV;

– Người nhiễm HIV tích cực tham gia phòng, chống HIV/AIDS;

– Người nhiễm HIV có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn;

– Những người khác nhiễm HIV.

* Được hưởng bảo hiểm y tế:

Người đang tham gia bảo hiểm y tế bị nhiễm HIV được Quỹ bảo hiểm y tế chi trả các chi phí khám bệnh, chữa bệnh

* Được hưởng sự chăm sóc: Người bị nhiễm HIV được hưởng sự chăm sóc từ gia đình, các cơ sở y tế của nhà nước và của các tổ chức khác trong xã hội

Câu hỏi số 53.

Mai từng là gái mại dâm và đã bị nhiễm HIV. Nay cô muốn hoàn lương và tìm một công việc để tự nuôi sống bản thân. Tuy nhiên, khi Mai đi xin việc ở các doanh nghiệp ở địa phương, tất cả đều từ chối vì biết cô bị nhiễm HIV. Xin hỏi, người bị nhiễm HIV có quyền được làm việc bình thường không? Việc các doanh nghiệp không tuyển dụng người nhiễm HIV có đúng quy định pháp luật không?

Trả lời:

Theo điểm c Khoản 1 Điều 4 Luật phòng chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người thì người bị nhiễm HIV/AIDS có quyền được làm việc.

Pháp luật cũng quy định rằng người sử dụng lao động không được phép từ chối tuyển dụng người lao động vì lý do người đó bị nhiễm HIV (trừ các ngành nghề: thành viên tổ lái trong hàng không dân dụng; nghề đặc biệt thuộc lĩnh vực an ninh, quốc phòng). Vì vậy, việc các doanh nghiệp từ chối tuyển dụng Mai vì cô bị nhiễm HIV là trái với quy định của pháp luật.

Điểm a Khoản 1 Điều 22 Nghị định số 69/2011/NĐ-CP ngày 08/08/2011 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính về y tế dự phòng, môi trường y tế và phòng chống HIV/AIDS quy định nếu chủ sử dụng lao động từ chối tuyển dụng vì lý do người dự tuyển lao động nhiễm HIV thì sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. (trừ các trường hợp có thể không nhận người bị nhiễm HIV bao gồm: thành viên tổ lái trong hàng không dân dụng và nghề đặc biệt thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh)

Câu hỏi số 54.

Người sử dụng lao động có trách nhiệm gì trong phòng chống nhiễm HIV/AIDS?

Trả lời:

Theo Khoản 1 Điều 14 Luật hòng chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người, người sử dụng lao động có trách nhiệm phòng chống nhiễm HIV/AIDS ở nơi làm việc như sau:

– Tổ chức việc tuyên truyền, giáo dục các biện pháp phòng, chống HIV/AIDS, chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV trong cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân;

– Bố trí công việc phù hợp với sức khỏe và trình độ chuyên môn của người lao động nhiễm HIV;

– Tạo điều kiện cho người lao động tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS;

– Các trách nhiệm khác về phòng, chống HIV/AIDS theo quy định của pháp luật.

Câu hỏi số 55.

Anh Bình là một công nhân lao động giỏi, thường xuyên được khen thưởng vì thành tích xuất sắc. Không may, sau một lần quan hệ với gái mại dâm, anh bị nhiễm HIV. Thông tin anh dương tính với HIV bị rò rỉ đến công ty nơi anh làm việc và Giám đốc công ty ra quyết định chấm dứt hợp đồng đối với anh. Xin hỏi, theo quy định của pháp luật, công ty có quyền được đuổi việc anh Bình không?

Trả lời:

Để bảo đảm quyền được làm việc của người bị nhiễm HIV, Khoản 2 Điều 14 Luật phòng chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người quy định người sử dụng lao động không được có các hành vi sau đây:

– Chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc gây khó khăn trong quá trình làm việc của người lao động vì lý do người lao động nhiễm HIV;

– Ép buộc người lao động còn đủ sức khỏe chuyển công việc mà họ đang đảm nhiệm vì lý do người lao động nhiễm HIV;

– Từ chối nâng lương, đề bạt hoặc không bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động vì lý do người lao động nhiễm HIV;

Đồng thời, Khoản 2 Điều 22 Nghị định 69/2011/NĐ-CP cũng quy định phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

– Chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc gây khó khăn trong quá trình làm việc của người lao động vì lý do người lao động nhiễm HIV;

– Ép buộc người lao động còn đủ sức khỏe chuyển công việc mà họ đang đảm nhiệm vì lý do người lao động nhiễm HIV;

– Từ chối nâng lương, đề bạt hoặc không bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động vì lý do người lao động nhiễm HIV;

Như vậy, trong trường hợp của anh Bình, công ty không có quyền chấm dứt hợp đồng lao động đối với anh. Trường hợp công ty cố tình chấm dứt hợp đồng lao động thì sẽ bị xử phạt hành chính từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng và buộc phải nhận anh Bình trở lại làm việc

Câu hỏi số 56.

Khi Vân nộp hồ sơ xin học văn hóa ở trung tâm học tập cộng đồng, người quản lý đã yêu cầu Vân phải nộp kết quả xét nghiệm HIV vì trước đây cô đã từng là gái mại dâm. Vân không đồng ý và cho rằng hành vi đó đã xúc phạm đến bản thân. Xin hỏi, Cơ sở giáo dục có quyền yêu cầu người xin học nộp kết quả xét nghiệm HIV hay không?

Trả lời:

Hành vi của người quản lý ở trung tâm học tập cộng đồng là trái với các quy định của pháp luật. Hành vi này không những đã xâm phạm đến quyền học tập của công dân mà còn tạo ra sự kỳ thị, phân biệt, đối xử.

Theo quy định của Điểm d Khoản 2 Điều 15 của Luật phòng chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người thì các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân không được phép yêu cầu xét nghiệm HIV hoặc yêu cầu xuất trình kết quả xét nghiệm HIV đối với học sinh, sinh viên, học viên hoặc người đến xin học. Như vậy, trung tâm học tập cộng đồng có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ của Vân và không được phép yêu cầu kết quả xét nghiệm HIV.

Theo Điểm b Khoản 1 Điều 23 của Nghị định 69/2011/NĐ-CP thì việc yêu cầu xét nghiệm HIV hoặc yêu cầu xuất trình kết quả xét nghiệm HIV đối với học sinh, sinh viên, học viên hoặc người đến xin học sẽ bị xử phạt từ 2.000.000 đến 5.000.000 đồng.

Câu hỏi số 57.

Khi thông tin Thúy là gái mại dâm đã bị nhiễm HIV truyền về làng quê nơi cô sinh sống, nhiều người đã tỏ ra khinh miệt gia đình cô. Thậm chí, một số phụ huynh còn yêu cầu hiệu trưởng trường học đuổi học em trai Thúy vì lý do chị cậu là gái mại dâm và nhiễm HIV. Họ cho rằng cậu có thể làm lây nhiễm HIV đến con họ đang học cùng trường. Xin hỏi, pháp luật quy định như thế nào về việc này?

Trả lời:

Trường học không có quyền đuổi học em trai Thúy. Hành vi này thể hiện sự kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người bị nhiễm HIV và gia đình của họ là hành vi bị nghiêm cấm the quy định của pháp luật Việt Nam. Đồng thời pháp luật cũng quy định trách nhiệm của các cơ sở giáo dục quốc dân trong việc bảo đảm quyền được học tập bình đẳng của người bị nhiễm HIV và thành viên trong gia đình của họ.

Điều 22 của Nghị định số 69/2011/NĐ-CP quy định:

– Cá nhân, tổ chức có hành vi cản trở hoặc từ chối tiếp nhận trẻ em, học sinh, sinh viên, học viên vào học trong các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân vì lý do người đó nhiễm HIV hoặc là thành viên trong gia đình có người nhiễm HIV sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng

– Cá nhân, tổ chức có hành vi kỷ luật, đuổi học sinh, sinh viên, học viên vì lý do người đó nhiễm HIV hoặc là thành viên trong gia đình có người nhiễm HIV sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng

– Cá nhân, tổ chức có 2 hành vi nói trên có trách nhiệm tiếp nhận học sinh, sinh viên, học viên vào cơ sở giáo dục.

Câu hỏi số 58.

Tôi được biết người bị nhiễm HIV có quyền được giữ bí mật riêng tư liên quan đến HIV/AIDS. Xin hỏi, pháp luật có những quy định gì để bảo đảm quyền này?

Trả lời:

Điểm d Khoản 1 Điều 4 Luật phòng chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người quy định người bị nhiễm HIV được giữ bí mật riêng tư liên quan đến HIV/AIDS.

Khoản 5 Điều 8 của Luật quy định nghiêm cấm hành vi công khai tên, địa chỉ, hình ảnh của người nhiễm HIV hoặc tiết lộ cho người khác biết việc một người nhiễm HIV khi chưa được sự đồng ý của người đó, trừ trường hợp quy định tại Điều 30 của Luật này.

Điều 30 của Luật quy định kết quả xét nghiệm HIV dương tính chỉ được thông báo cho các đối tượng sau đây:

– Người được xét nghiệm;

– Vợ hoặc chồng của người được xét nghiệm, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người được xét nghiệm là người chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự;

– Nhân viên được giao nhiệm vụ trực tiếp tư vấn, thông báo kết quả xét nghiệm HIV dương tính cho người được xét nghiệm;

– Người có trách nhiệm chăm sóc, điều trị cho người nhiễm HIV tại các cơ sở y tế, bao gồm trưởng khoa, trưởng phòng, điều dưỡng viên trưởng nơi người nhiễm HIV điều trị, nhân viên y tế được giao trách nhiệm trực tiếp điều trị, chăm sóc cho người nhiễm HIV tại cơ sở y tế;

– Người đứng đầu, cán bộ phụ trách y tế, nhân viên y tế được giao nhiệm vụ trực tiếp chăm sóc sức khỏe cho người nhiễm HIV tại cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, cơ sở bảo trợ xã hội, trại giam, trại tạm giam;

– Người đứng đầu và cán bộ, công chức được giao trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Toà án nhân dân trong trường hợp xét nghiệm HIV bắt buộc.

Những người có liên quan nêu trên có trách nhiệm giữ bí mật kết quả xét nghiệm HIV dương tính.

Câu hỏi số 59.

Theo quy định của pháp luật, người bị nhiễm HIV có những nghĩa vụ gì?

Trả lời:

Theo Khoản 2 Điều 4 Luật phòng, chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người, người bị nhiễm virus HIV có những nghĩa vụ sau đây:

– Thực hiện các biện pháp phòng lây nhiễm HIV sang người khác;

– Thông báo kết quả xét nghiệm HIV dương tính của mình cho vợ, chồng hoặc cho người chuẩn bị kết hôn với mình biết;

– Thực hiện các quy định về điều trị bằng thuốc kháng HIV;

– Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Câu hỏi số 60.

Theo quy định của pháp luật, người bị nhiễm HIV thực hiện phòng chống HIV/AIDS theo những hình thức nào?

Trả lời:

Theo quy định của Điều 20 Luật phòng, chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người thì người nhiễm HIV có quyền tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS.

Đồng thời, người bị nhiễm HIV được nhà nước khuyến khích tạo điều kiện tham gia các hoạt động phòng chống nhiễm HIV/AIDS sau:

– Tham gia nhóm giáo dục đồng đẳng, câu lạc bộ và các hình thức tổ chức sinh hoạt khác của người nhiễm HIV theo quy định của pháp luật;

– Tuyên truyền và thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV;

– Hỗ trợ, chăm sóc người nhiễm HIV;

– Tham gia ý kiến trong quá trình xây dựng chương trình, chính sách, pháp luật liên quan đến HIV/AIDS;

– Các hoạt động khác về phòng, chống HIV/AIDS.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của Thiquocgia.vn.

0 ( 0 bình chọn )

Thi Quốc Gia Thi THPT Quốc Gia 2021 của nhà xuất bản Giáo Dục Việt nam

https://thiquocgia.vn
Tổng hợp tài liệu ôn thi THPT Quốc Gia 2020 - 2021, Thi tốt nghiệp, Tài liệu luyện thi

Bài viết liên quan

Bài viết mới

Xem thêm